Tóm tắt tiểu sử Đồng chí Ngô Thành – Cán bộ Lão thành cách mạng, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai – Kon Tum, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai

Cập nhật 10/8/2024, 18:08:35

Tóm tắt tiểu sử Đồng chí Ngô Thành – Cán bộ Lão thành cách mạng, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai – Kon Tum, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai

Đồng chí Ngô Thành (Chinh).

Sinh ngày 20 tháng 12 năm 1927.

Quê quán: xã Tam Hiệp, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.

Trú quán tại số nhà 07, đường Nguyễn Du, phường Tây Sơn, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.

Từ tháng 3/1945 đến tháng 8/1945, đồng chí tham gia Hội truyền bá chữ Quốc ngữ tại địa phương và có chân trong ban vận động khởi nghĩa xã Vĩnh Đại. Tháng 9/1945, đồng chí là Thư ký Hành chính xã. Ngày 28/9/1946, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), từ tháng 9/1947 đồng chí là Bí thư Thanh niên và phó bí thư chi bộ xã Vĩnh Đại.

Tháng 10/1947, đồng chí thoát ly gia đình, vào bộ đội, học văn hóa ở trường Trung học bình dân, học quân sự ở trường Lục Quân Võ bị Trần Quốc Tuấn. Từ tháng 10/1950 đồng chí phụ trách huấn luyện quân sự Trường Quân chính E108; đầu năm 1951 Quân khu V điều về làm cán bộ tác huấn (D59) E803. Cuối năm 1951 đồng chí được phân công về công tác ở đoàn Vũ trang 118, hoạt động ở Tây Nguyên. Năm 1954 đồng chí là Chính trị viên phó Đại đội hoạt động vùng huyện Chư Prông và Đức Cơ ngày nay.

Sau đình chiến, năm 1954 đồng chí được phân công ở lại miền Nam hoạt động tại huyện 5 nay là huyện Chư Prông và 1 phần của huyện Đức Cơ, Chư Sê, Chư Pưh, tỉnh Gia Lai, là Ủy viên Ban cán sự Đảng huyện 5, tỉnh Gia Lai. Từ cuối năm 1959 đến tháng 6/1960, đồng chí là quyền Bí thư huyện 5, tỉnh Gia Lai.

Giữa năm 1960 đồng chí là Phó Bí thư Ban cán sự Đảng huyện 4, 5 (sáp nhập huyện 4 và 5). Từ tháng 8/1961 đồng chí được bổ sung vào Tỉnh ủy, Bí thư huyện 4.

Từ tháng 7/1962 đến cuối năm 1963, đồng chí là Tỉnh ủy viên, Bí thư Khu 10 phụ trách công tác dinh điền. Đầu năm 1964 đến tháng 8/1965, đồng chí là Tỉnh ủy viên, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy. Từ tháng 8/1965, đồng chí là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách Trưởng Ban Kinh tài tỉnh, Chủ tịch Hội đồng cung cấp tiền lương, tháng 8/1968 là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Gia Lai. Từ tháng 7/1970 đến tháng 12/1970, đồng chí đi học ở Trường Đảng khu V. Từ năm 1971 đến năm 1973  đồng chí là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên huấn, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy; từ tháng 10/1973 đến tháng 10/1975 đồng chí là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai.

Tháng 11/1975 đồng chí là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai – Kon Tum. Tháng 5/1977 đồng chí làm Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy. Tháng 3/1983 đồng chí là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Thường trực Đảng Tỉnh ủy. Tháng 10/1986, đồng chí là Phó Bí thư kiêm Trưởng ban Kinh tế Tỉnh ủy. Năm 1987 đồng chí kiêm Trưởng Ban Dân vận, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai – Kon Tum. Tháng 10/1991 đến tháng 01/1992 khi chia tách tỉnh Gia Lai và Kon Tum, đồng chí là Phó Bí thư Ban Chấp hành lâm thời tỉnh Gia Lai kiêm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai.

Năm 1994 về nghỉ hưu, đồng chí tiếp tục tham gia công tác tại khu dân cư. Tham gia đóng góp nội dung các tập lịch sử cho Đảng bộ tỉnh, lịch sử của một số ban ngành, đoàn thể và một số huyện. Từ năm 2001 – 2010, đồng chí làm Chủ nhiệm Câu Lạc bộ thơ Người cao tuổi và Chủ nhiệm Câu Lạc bộ UNESCO thơ Đường Việt Nam chi nhánh Gia Lai.

Trong quá trình hoạt động cách mạng và công tác, đồng chí đã vinh dự được tặng thưởng nhiều Huân chương cao quý của Đảng và Nhà nước, như:

Huân chương độc lập hạng Nhì, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Quyết thắng hạng Nhất, 02 Huân chương Giải phóng hạng Nhất, Huân chương Giải phóng hạng Nhì, Huân chương Thành đồng hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương chiến thắng hạng Ba, Huân chương Đại đoàn kết.

Huy hiệu 40, 50, 60, 70, 75 năm tuổi Đảng, nhiều huân, huy chương và các hình thức khen thưởng khác.

Trả lời