Đồng bào Jrai theo chế độ mẫu hệ, đây là nét đặc trưng quan trọng trong đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số Jrai
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Gia Lai đồng bào dân tộc Jrai có 408.210 khẩu, chiếm tỷ lệ 29,9% tổng dân số tỉnh. Trong chế độ mẫu hệ của người Jrai còn nhiều luật tục lạc lậu vẫn đang tồn tại và có những tác động chi phối không nhỏ đến đời sống của đồng bào dân tộc, những phong tục lễ nghi phức tạp gây những tốn kém về kinh tế. Dưới tác động của kinh tế thị trường đã góp phần hạn chế những luật tục này, nhưng cũng đặt ra một số vấn đề đối với chế độ mẫu hệ trong cộng đồng người Jrai ở tỉnh Gia Lai hiện nay. Trong bài viết này, tác giả xem xét tác động của kinh tế thị trường đến chế độ mẫu hệ của đồng bào Jrai trên ba phương diện: đó là vai trò chính của người phụ nữ trong gia đình, quyền thừa kế và vấn đề hôn nhân trong gia đình đồng bào Jrai.
Nói về vai trò chính trong gia đình, chế độ mẫu hệ hay chế độ mẫu quyền là một hình thái tổ chức xã hội trong đó người phụ nữ, đặc biệt là người mẹ, giữ vai trò lãnh đạo, quyền lực và tài sản được truyền từ mẹ cho con gái. Ngay cả trong hệ thống luật tục, cộng đồng vẫn dành những sự ưu ái nhất định với người phụ nữ như họ có quyền đi hỏi chồng, được lấy chồng khác sau khi làm lễ bỏ mả cho người chồng đã chết…
Ngày nay, trong gia đình người Jrai vai trò lãnh đạo, quyền lực trong gia đình lại thuộc về người trụ cột của gia đình. Trụ cột ở đây là người nắm về mặt kinh tế, tức là người tạo ra nguồn thu nhập chính trong gia đình, mà chủ yếu là người đàn ông. Bởi do yêu cầu của nền kinh tế thị trường đòi hỏi lực lượng lao động phải có sức khỏe, có trình độ, mà hai điểm này lại không phù hợp với người phụ nữ Jrai, những người đã quen với môi trường làm việc nương rẫy, chăm lo gia đình.
Chính vì vậy đã có sự thay đổi lớn về vai trò của người phụ nữ trong gia đình, chẳng hạn trước đây, muốn quyết định việc gì trong gia đình, thì người đàn ông phải hỏi ý kiến phụ nữ và phải tôn trọng quyết định của họ, còn bây giờ thì mọi việc đều do cả hai cùng quyết định, thậm chí có những việc do người đàn ông toàn quyền quyết định. Tóm lại, người phụ nữ không còn giữ được quyền lực tối cao, chi phối người đàn ông nữa.
Tuy nhiên, không vì vậy mà phủ nhận vai trò và vị trí của người phụ nữ trong gia đình, bởi người phụ nữ vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc quản lý kinh tế của gia đình, đặc biệt là giáo dục con cái, nhất là con gái. Người con gái trước khi lấy chồng cần phải có đầy đủ những phẩm chất cần thiết, bởi vì trước khi lấy chồng người con gái phải trải qua giai đoạn “thử việc”, tức là sang ở bên nhà chồng ít nhất 1 tháng để nhà chồng đánh giá, nếu bị trả về tức là thất bại. Do đó, người con gái muốn vượt qua giai đoạn “thử việc” cần sự giúp đỡ rất lớn từ người mẹ trong gia đình.
Ngoài ra, còn một vài điểm thể hiện vai trò của người phụ nữ trong gia đình như con cái trong gia đình đều mang theo họ mẹ, hoặc người chồng phải ở bên nhà vợ ít nhất 3 năm mới được tách ra ở riêng, ngày nay thì chỉ còn khoảng 3 tháng, hoặc vài ngày tùy theo điều kiện của từng gia đình. Đây vẫn là một số điểm đặc thù, khẳng định vai trò của của người phụ nữ trong chế độ mẫu hệ của người Jrai.
Trong chế độ mẫu hệ, quyền thừa kế gia sản thuộc về phụ nữ. Nếu gia đình có nhiều chị em sống chung với nhau, thì số tài sản, của cải đó do người con gái lớn nhất quản lý. Trường hợp có người đi lấy chồng và ra ở riêng thì mới phân chia cho họ một phần. Các anh em trai đều không được chia phần trong số tài sản đó. Nếu không có các con gái thì các con trai về ở với bà ngoại hoặc các dì và số tài sản do mẹ để lại thuộc về bà hoặc các dì. Như vậy, luật tục về thừa kế tài sản có phần ưu ái với phụ nữ mà không bình đẳng giữa chồng và vợ, giữa trai và gái, gia đình chồng và gia đình vợ.
Đây được xem là bản sắc riêng của người Jrai, nhưng dưới tác động của việc giao thoa văn hóa, đồng thời dưới góc độ pháp luật, luật tục này không phù hợp với Nghị định của chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số, số 32/2002/NĐ-CP, ngày 27 tháng 03 năm 2002. Vì vậy, hiện nay hầu như trong gia đình người Jrai trên địa bàn tỉnh, tài sản được chia đều cho con cái, không phân biệt con trai hay con gái. Sự khác biệt ở đây nằm ở tục “Đầu gối bố mẹ”, tức là khi bố mẹ mất tại gia đình người con nào thì người con đó được hưởng phần tài sản còn lại của bố mẹ, thường là người con út, vì trong gia đình mẫu hệ người con út rất được bố mẹ yêu quý.
Trong hôn nhân của người Jrai thì người con gái và gia đình nhà gái đóng vai trò chủ động tiêu biểu đó là tục lệ “bắt chồng”. Trước đây, theo tục lệ nhà gái phải biếu mỗi người trong họ nhà chồng gồm anh chị em ruột chồng, anh chị em, chú bác, cô dì… của cha mẹ chồng một bộ váy, khố truyền thống. Xong khoản quà tặng, kế đến là khoản lễ vật. Lễ vật bất di bất dịch là 2 con bò. Lễ vật chia xong, nhà gái phải lo toàn bộ thức ăn, thức uống trong suốt 2 ngày… Phải cần hàng chục ghè rượu, một con heo to và hàng chục cân thịt bò cho mọi người ăn uống đến thỏa thích.
Những nét văn hóa này là những giá trị truyền thống được hình thành từ lâu đời, nhưng nó cũng kéo theo nhiều hệ lụy, bởi nó vừa rườm rà, tốn kém, lại mất thời gian ảnh hưởng lớn đến kinh tế của gia đình… Chẳng hạn, đồng bào dân tộc thiểu số người Jrai ở vùng biên giới thuộc huyện Ia Grai, việc "bắt chồng" và làm đám cưới là việc được cho là quan trọng nhất trong đời mỗi người. Do đó lễ cưới phải thật linh đình để vợ chồng sau đó được hạnh phúc và con cái sum vầy, giàu có. Nhưng việc tổ chức đám cưới đã trở thành món nợ cho những gia đình nghèo khó, và cứ thế truyền đời bởi lệ tục… có thể xem là “món nợ truyền kiếp”.
Cùng với sự đi lên của kinh tế, và sự giao thoa văn hóa đối với các dân tộc khác. Trong đám cưới của người Jrai chủ yếu chỉ được tiến hành trong một ngày, nhà gái vẫn đóng vai trò chủ động. Tuy nhiên, những khoản quà tặng, lễ vật và tiệc đãi khách đã được đơn giản hóa và mang tính “Kinh hóa”. Tức là, tiệc cưới của người Jrai ngày càng giống các đám cưới của người kinh, không còn những bộ váy khố truyền thống, lễ vật thì đều được quy ra “tiền” và “dịch vụ”… Điều này đã làm giảm bớt tính rườm rà và mất thời gian, nhưng đi kèm với nó là những giá trị bản sắc riêng cũng bị mai một dần.
Theo lời kể của đồng chí Prắc Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân phường Trà Bá, thành phố Pleiku cho biết: “hiện nay trên địa bàn phường có ba làng, làng Ngol, Ngo, Khươl, chủ yếu là đồng bào Jrai sinh sống, nhưng những nét phong tục tập quán đã bị mai một dần chỉ còn khoảng dưới 20% so với trước đây”.
Chính do tác động của kinh tế thị trường, làm cuộc sống của cộng đồng người Jrai có nhiêu biến đổi, những người nắm bắt những cơ hội và tận dụng tốt cơ hội sẽ thành công và giàu lên, những người khác do trình độ còn hạn chế, không biết và tận dụng tốt cơ hội sẽ nghèo đi, từ việc biến đổi trong đời sống vật chất sẽ dẫn đến những biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần, chẳng hạn nảy sinh tâm lý muốn làm giàu, dành hết thời gian để tìm cách làm giàu, từ đó quên đi hay buông lỏng các di sản văn hóa truyền thống.
Mặc dù những tác động của nền kinh tế thị trường làm những bản sắc văn hóa riêng bị mai một, nhưng nó cũng góp phần xóa bỏ những nét phong tục lạc hậu. Chẳng hạn, trong luật tục Jrai cho phép người đàn bà có chồng chết được quyền lấy cháu ruột của người chồng đó. Việc lấy trong dòng họ tạo nên mối quan hệ bền chặt của dòng họ đó. Đó là quyền được duy trì nòi giống, huyết thống, duy trì sự tồn tại của dòng họ.
Tuy nhiên, tính khắt khe của tập tục nối nòi đã khiến cho nhiều người phụ nữ rơi vào tình trạng bất hạnh, chịu cảnh khốn khổ về chênh lệch tuổi tác. Đây quả là vấn đề hết sức phức tạp. Nếu không chịu “nối dây” thì vi phạm luật tục, nhưng nếu chấp nhận “nối dây” mà quá chênh lệch tuổi tác thì vi phạm pháp luật nhà nước hiện hành. Nhưng ngày nay, tục “nối dây” này hầu như đã được xóa bỏ trong các gia đình đồng bào Jrai.
Từ thực trạng nêu trên, thiết nghĩ cần phải đặt ra một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực từ kinh tề thị trường đến chế độ mẫu hệ của người Jrai trên địa bàn Gia Lai.
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục. Những giá trị gây cản trở cho sự phát triển thì phải tổ chức vận động, thuyết phục để tự bản thân người dân thấy rõ tác hại và loại bỏ chúng, như tục lệ cưới hỏi, tang ma kéo dài nhiều ngày, chôn chung, tục nối dây…
Thư hai, tổ chức các phong trào, các lễ hội nhằm duy trì các lễ nghi, phát huy những luật tục tốt đẹp trong chế độ mẫu hệ, đặc biệt là tính nhân đạo và tính công bằng trong hôn nhân và gia đình người đồng bào Jrai.
Thứ ba, cần phát huy tốt vai trò của già làng, trưởng bản đối với việc phát huy nếp sống văn hóa gia đình. Họ là những người lưu giữ được nhiều nhất những giá trị văn hóa truyền thống, có kinh nghiệm và uy tín, tiếng nói có giá trị cao và được nể trọng trong cộng đồng.
Thứ tư, giáo dục ý thức pháp luật cho mọi người dân nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng, tuyên truyền phổ biến những điều luật, những quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số./.
Dương Trung Kiên (Trường Chính trị tỉnh)