Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng- Liều thuốc cho những người giữ rừng

Cập nhật 12/6/2017, 08:06:04

Cùng với xử lý nghiêm các hành vi khai thác trái phép tài nguyên rừng thì công tác bảo vệ rừng ở các địa phương trên địa bàn tỉnh đang được quan tâm thực hiện. Trong đó, việc thực hiện nghiêm túc chính sách chi trả dịch vụ rừng cho các chủ rừng và các xã thực hiện việc giao khoán quản lý bảo vệ rừng cho người dân sống gần rừng trong vùng quy hoạch đã và đang có tác động tích cực đến công tác quản lý bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh.

Một buổi đi kiểm tra thực địa rừng của các thành viên tổ Quản lý bảo vệ rừng số 1 xã Kon Pne huyện KBang, xã  xa nhất của tỉnh Gia Lai. Mỗi tuần các tổ quản lý bảo vệ rừng phân công nhau trực, tuần tra từ 2 đến 3 ngày, các thành viên phải thường xuyên có mặt triển khai nhiệm vụ trên khu vực quản lý, bảo vệ.

Anh Đinh Ủi – Tổ trưởng tổ QLBVR số 1 xã KonPne huyện Kbang cho biết: “Mình lập danh sách, thường xuyên tập trung mọi người tham gia đi tuần tra rừng. Các thành viên trong tổ cũng được quyền tự theo dõi, giám sát lẫn nhau Khi phát hiện rừng bị phá là báo ngay với chính quyền xử lý”.

Kon Pne là địa phương có diện tích rừng rất lớn thuộc vùng lõi rừng tự nhiên Vườn Quốc Gia KonKaKinh và cũng là nơi giao thoa với Khu bảo tồn thiên nhiên KonChưRăng. Nhiều năm qua, để triển khai công tác chi trả Dịch vụ môi trường rừng gắn với Quản lý bảo vệ rừng có hiệu quả, xã Kon Pne đã thành lập 3 tổ quản lý bảo vệ rừng, các tổ này trực tiếp ký kết với UBND xã về việc nhận tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng và chịu trách nhiệm quản lý bảo vệ rừng trên diện tích được giao khoán. Hiện toàn xã có trên 300 hộ dân  người BahNa hàng năm nhận giao khoán quản lý bảo vệ rừng trên diện tích 2.500ha theo mô hình ký kết thông qua các tổ QLBVR, bình quân mỗi ha người dân nhận giao khoán QLBV số tiền trên 200 ngàn đồng một ha/1 năm. Không chỉ ký kết hợp đồng với xã, người dân ở đây còn nhận ký kết hợp đồng QLBVR với Vườn Quốc Gia KonKaKinh . Nguồn thu nhập từ việc nhận giao khoán quản lý bảo vệ rừng thời gian qua đã góp phần đáng kể cho cuộc sống hàng ngày của bà con. Cũng từ đây, ý thức, trách nhiệm của cộng đồng được nâng lên, các vụ vi phạm luật Bảo vệ & phát triển rừng đã được hạn chế triệt để.

Ông Lê Văn Quang – PCTUBND xã KonPne huyện Kbang cho biết: “ Cùng với việc thành lập các tổ QLBVR, xã có chính sách khuyến khích bà con, tự kiểm tra, giám sát công việc của nhau.Trường hợp nào không thực hiện đúng cam kết sẽ bị đưa ra khỏi danh sách hoặc thông báo trước cộng đồng để khuyến khích các hộ tích cực”.

Bên cạnh việc chi trả đơn giá 300 ngàn đồng/1ha cho việc giao khoán QLBV cho  300 hộ dân thuộc các làng ở 4 xã và thị trấn thuộc huyện Chư Pah, thời gian qua Ban QLRPH Ialy cũng đã dành nguồn quỹ hỗ trợ Bảo vệ và phát triển rừng hàng năm để đầu tư mua sắm các phương tiện kỹ thuật, phòng chống cháy, nhà trạm, củng cố hoạt động của các tổ, đội QLBVR trên địa bàn .

Ông Phạm Thành Phước – Trưởng Ban QLRPH IaL y cho biết: “ Nội dung.Chúng tôi thường xuyên phối hợp với chính quyền địa phương tăng cường tuyên truyền, giám sát mọi hoạt động người dân sống gần rừng. Việc sử dụng quỹ đúng mục đích, đảm bảo công khai minh bạch, phát huy hiệu quả”.

Là tỉnh miền núi nằm ở phía Bắc Tây nguyên, Gia Lai có diện tích lâm nghiệp  với 625.432ha. Trong đó diện tích rừng cung ứng dịch vụ môi trường rừng 495.186 ha, chiếm 79% diện tích rừng toàn tỉnh. Diện tích rừng này đã và đang cung cấp các loại dịch vụ môi trường rừng để sản xuất thủy điện, sản xuất nước sạch, du lịch sinh thái … Theo đó, trên địa bàn tỉnh có 32 thủy điện, 3 nhà máy nước ký kết hợp đồng ủy thác với Quỹ bảo vệ và phát triển rừng tỉnh và 9 thủy điện ký kết hợp đồng ủy thác với Quỹ Trung ương. Với mức thu tiền Dịch vụ môi trường rừng bình quân từ 60 đến 65 tỷ đồng/năm. Kể từ khi thành lập quỹ đến nay đã góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước và được ví như liều thuốc bổ tiếp sức cho các chủ rừng tăng cường công tác QLBVR ở địa phương.

Ông Nguyễn Văn Thưởng – Phó Giám đốc Quỹ bảo vệ và PT rừng Gia Lai cho biết: “Từ khi triển khai quỹ đến nay, chúng tôi ưu tiên chi trả cho người dân nhận khoán quản lý bảo vệ rừng. Cho đến nay so với thời điểm trước khi có quỹ, số hộ nhận khoán diện tích rừng giao khoán tăng lên, số vụ vi phạm giảm xuống hàng chục lần”.

             Từ nguồn thu hàng năm theo quy định, qua hơn 5 năm, quỹ bảo vệ và phát triển rừng đã quản lý nguồn thu, chi trả dịch vụ môi trường rừng với số tiền trên 300 tỷ đồng dành cho các đơn vị chủ rừng gồm: 19 Ban quản lý rừng phòng hộ, 11 công ty lâm nghiệp, 87 xã có rừng. Không chỉ giúp các chủ rừng giải quyết khó khăn về tài chính, mà còn có điều kiện mở rộng diện tích giao khoán cho dân hưởng lợi, gắn bó với rừng, từ đó, nhận thức của người dân sống gần rừng được nâng lên, trách nhiệm của các chủ rừng và hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ rừng, cùng chung tay giữ rừng ở địa phương cũng được nâng lên rõ rệt./.

Gia Cư,  K.Tuối

Trả lời