Diễn biến trận đánh Đak Pơ huyền thoại

Cập nhật 11/6/2024, 06:06:20

Nối tiếp Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, cách đây 70 năm (ngày 24/6/1954), quân và dân ta đã giành thắng lợi oanh liệt trong trận đánh Đak Pơ, góp phần buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ vào ngày 21/7/1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương; kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến của dân tộc ta chống thực dân Pháp, mốc son chói lọi trong trang sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam. Chiến thắng Đak Pơ được ví là “Điện Biên Phủ ở Liên khu V”; là tượng đài bất tử, tạc vào non sông, đất nước ta như một huyền thoại, sáng mãi chủ nghĩa anh hùng và khát vọng hòa bình, độc lập tự do.

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954), cuộc kháng chiến của dân tộc ta chống thực dân Pháp xâm lược vẫn còn tiếp diễn. Quân Pháp ở Đông Dương còn đông và tiếp tục được tăng cường lực lượng và vũ khí hiện đại. Ở Tây Nguyên, quân Pháp rút khỏi các đồn nhỏ, lẻ để co cụm lực lượng tại các thị xã, thị trấn; hình thành từng khu vực phòng ngự vững chắc như tại An Khê, Pleiku, Buôn Ma Thuột…

  Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng về tận dụng thời cơ để chủ động tiến công tiêu diệt địch; Bộ Tư lệnh Liên khu 5 đã tăng cường lực lượng, thực hiện chiến dịch Bắc Tây Nguyên; tổ chức nhiều đợt tấn công như vũ bão, giành thắng lợi to lớn; vừa giành giữ địa bàn chiến lược Tây Nguyên, vừa củng cố vùng tự do. Đỉnh cao của thắng lợi đó là Chiến thắng Đak Pơ huyền thoại ngày 24/6/1954.

Đại tá, Tiến sỹ Lê Thanh Bài – Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam trao đổi: “Thực hiện chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng trong Đông Xuân 1953-1954, đã mở Chiến dịch Bắc Tây Nguyên và đã sớm giải phóng Kon Tum, diệt một loạt đồn, bốt của địch trên đường 19 và buộc thực dân Pháp phải co cụm lại. Chính điều đấy sau khi thất bại tại Điện Biên Phủ, phía Pháp lo ngại Binh đoàn Cơ động GM 100 đóng ở An Khê dễ bị ta tiêu diệt nên muốn rút Binh đoàn đấy về Pleiku. Đó là thời cơ để ta tiến hành một trận phục kích tiêu diệt sinh lực địch, đánh quỵ luôn mưu đồ hòng gỡ gạt kéo dài chiến tranh của chúng.”

Đúng như dự đoán của ta, trung tuần tháng 6/1954, do không được tiếp tế, chi viện kịp thời, lại bị quân và dân Liên khu V liên tục công kích nên quân địch ở An Khê bị dồn vào thế nguy cấp, lo ngại sẽ dẫn đến một “Điện Biên Phủ thứ hai”. Sau khi chuẩn bị rất chu đáo, sáng ngày 24/6/1954, đoàn quân của địch từ An Khê rút về Pleiku trên đường 19 độc đạo.

Lực lượng của địch rút từ An Khê về Pleiku rất hùng mạnh, gấp nhiều lần về quân số và vũ khí so với ta. Chúng gồm Binh đoàn ứng chiến cơ động 100 (GM 100) quân viễn chính Pháp do Đại tá Ba-ru tổng chỉ huy; cùng Tiểu đoàn 520 ngụy, Tiểu đoàn pháo 105 ly và một số đơn vị địa phương quân với phương tiện, khí tài gồm các phân đội xe tăng, thiết giáp, các loại xe đặc chủng công binh, thông tin; được sự yểm trợ, chi viện của Binh đoàn GM 42 từ hướng Pleiku xuống và lực lượng không quân.

Trung đoàn 96 được Bộ Tư lệnh Liên khu V giao nhiệm vụ là lực lượng chủ công cùng 2 đại đội của Trung đoàn 120 và bộ đội địa phương An Khê, Đắk Bớt, Tân An tiêu diệt địch tháo chạy trên đường 19 từ An Khê về Pleiku.

 Sau khi đã tổ chức trinh sát trận địa, ngày 24/6, toàn Trung đoàn 96 và các đơn vị của ta đã chiếm lĩnh vị trí chiến đấu trước khi trời sáng. Đoạn phục kích tiêu diệt địch dài khoảng 800 m, trong đó chọn đoạn cầu Đak Pơ (cây số 15) rất hiểm trở làm trung tâm của trận quyết chiến. Các đơn vị của ta được phân công đảm nhiệm các mũi tiến công, tác chiến một cách bài bài.

Ông Thái Diệp – Cựu chiến binh Trung đoàn 96 (hiện ở huyện Đak Pơ, Gia Lai) hồi tưởng: “Đêm 23, sáng 24 chúng tôi đi một đêm từ Kbang đi đường Đông Trường Sơn, đi suốt cả sáng. 5 giờ sáng đến Đồng Chè và lên tới vùng này bố trí quân dọc theo đó. 5 giờ sáng có lệnh sẵn sàng chiến đấu, đào công sự, ngụy trang đàng hoan. Mỗi người một cái hầm nằm ở dưới, ngụy trang lá ở trên, súng đạn để bên cạnh đó… Lúc đó tôi ở cối 82 mm. Đường quốc lộ này lúc đó chỉ có 3 m thôi, đường cấp phối, đứng ở con đường này nhìn lên thì thấy cây hai bên chứ không có nhà có cử.  Mình bố trí từ Đồng Chè lên tới dốc Đối đây. Quân mình bố trí trên đồi hết…”

Ông Phạm Lộng – Thanh niên xung phong trong trận đánh Đak Pơ (hiện ở thị xã An Khê, Gia Lai) cho biết: “Hành quân rất gian nan, không tiếng nói, không được ngủ, tất cả tập trung chiến trường để đánh thắng Pháp. Khẩu hiệu của Thanh niên xung phong lúc bấy giờ là tất cả cho chiến trường… Chiến trường rất ác liệt, khí thế của cán bộ, đảng viên, Quân đội nhân dân Việt Nam chúng ta rất hăng hái, anh dũng…. Lúc đó tất cả vì đồng đội vì chiến trường.”

Sáng 24/6, khi đến km số 6, đoàn quân của địch bị lực lượng địa phương An Khê đánh vào phía sau đội hình nên tổ chức đánh trả, sau 30 phút mới tiếp tục hành quân. 12h 30 phút ngày 24/6, khi bộ phận đi đầu của địch vượt qua cầu Đak Pơ, Trung đoàn trưởng 96 ra lệnh nổ súng. Cối 82, ĐKZ và các loại súng bộ binh của Đại đội 68 thuộc Tiểu đoàn 40 đồng loạt nổ súng vào đoàn xe đi đầu của địch, chiếc đầu tiên khi vượt qua cầu Đak Pơ lên dốc bị bắn gục, bốc cháy.

Sau tiếng súng của bộ phận chặn đầu vang lên, bị đánh bất ngờ, đội hình hành quân của địch ùn ứ, rối loạn.Trong khi đó, Tiểu đoàn 79 tiến công vào đoạn giữa đội hình hành quân, đánh trúng sở chỉ huy của địch. Một số xe tăng, xe bọc thép, xe vận tải của địch bốc cháy. Quân địch chống trả rất quyết liệt, nhưng trong thế bị động và lúng túng. Đến 15 giờ 30 phút, toàn bộ lực lượng của địch đi đầu và đi giữa trong đội hình hành quân đã lọt vào trận địa phục kích của ta, chúng đã mất sức chiến đấu hoàn toàn. Lực lượng quân địch ở phía sau dồn lên phản kích, có sự chi viện của pháo binh và không quân. Lực lượng của ta vừa đánh lại các đợt phản kích, vừa tổ chức truy kích, tiêu diệt địch. Trận đánh tiếp tục diễn ra ác liệt, kéo dài suốt chiều, qua đêm và đến trưa 25-6 mới kết thúc; ta giành thắng lợi oanh liệt, tiêu diệt gọn lực lượng của địch.

Trận đánh Đak Pơ có quy mô, tầm vóc lịch sử và ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, được ví như “Điện Biên Phủ” ở Liên khu 5; một trong những thắng lợi rực rỡ bậc nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp; đã tạc vào lịch sử của dân tộc như một dấu son, mãi mãi vang vọng non sông./.

                                                                                                                                   Hà Đức – Đức Hải

Trả lời