ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN Kỷ niệm 60 năm Ngày truyền thống Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai (15/4/1965 – 15/4/2015)

Cập nhật 31/12/2024, 16:12:29

Biên giới quốc gia là bộ phận thiêng liêng, bất khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia, có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh, kinh tế và đối ngoại. Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai được giao nhiệm vụ quản lý, bảo vệ đoạn biên giới dài 80,485km, tiếp giáp với tỉnh Rattanakiri/Campuchia. Quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị trên giao, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng tỉnh luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sâu sát, hiệu quả của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, của Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Gia Lai, sự phối hợp giúp đỡ của các cấp các ngành, sự đùm bọc, che chở của QCND nhất là đồng bào các dân tộc trên khu vực biên giới, cùng với sự nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, luôn kế thừa và phát huy xứng đáng truyền thống vẻ vang, rất đáng khâm phục tự hào qua 60 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của lực lượng An ninh vũ trang – Công an nhân dân vũ trang tỉnh Gia Lai trước đây, nay là BĐBP tỉnh Gia Lai.

  1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG AN NINH VŨ TRANG – CÔNG AN NHÂN DÂN VŨ TRANG TỈNH GIA LAI (NAY LÀ BĐBP TỈNH GIA LAI)

Ngày 20/07/1954, Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, Lào, Campuchia được ký kết đã đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1945-1954), mở ra một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân hai miền Nam – Bắc khẩn trương củng cố lại lực lượng, chuẩn bị bước vào cuộc chiến đấu mới. ở miền Bắc, quân đội, công an nhanh chóng chấn chỉnh tổ chức, sắp xếp lại lực lượng, sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ mới của cách mạng. Ngày 3/3/1959, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 100/TTg về việc “Thành lập lực lượng Công an nhân dân vũ trang” trên cơ sở thống nhất các đơn vị bộ đội đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, giới tuyến và các đơn vị công an biên phòng, cảnh sát vũ trang đã được thành lập trước đó thành một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, theo đó “Công an nhân dân vũ trang” có nhiệm vụ: trấn áp mọi hành động phá hoại của bọn phản cách mạng trong nước và bọn phản cách mạng ngoài nước xâm nhập phá hoại nước ta; luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ an ninh biên giới, bờ biển, giới tuyến tạm thời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, và các mục tiêu kinh tế, văn hóa quan trọng.  Từ đó ngày 03/3 hàng năm là ngày truyền thống của lực lượng CANDVT nay là lực lượng BĐBP.

Trước yêu cầu đòi hỏi từ thực tiễn cách mạng miền Nam, tháng 01/1959, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (Khóa II) đã ra Nghị quyết khẳng định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam, thiết lập chính quyền cách mạng.

    Đầu năm 1965, để cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền tay sai, đế quốc Mỹ liều lĩnh mở rộng chiến tranh, đưa quân vào trực tiếp tham chiến ở chiến trường miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân đối với miền Bắc nước ta.

Tháng 3/1965, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 (Khoá III) đã nhận định cả nước có chiến tranh và quyết định: “Động viên quân và dân cả nước, phát triển thế chủ động tiến công địch…”. “chuẩn bị sẵn sàng đánh trả và đánh thắng các thủ đoạn chiến tranh của địch gây ra”.

    Để xây dựng và phát triển lực lượng An ninh vũ trang thuộc chiến trường B, ngày 01/3/1965, theo yêu cầu của Bộ Công an, được Thường vụ Đảng ủy Công an nhân dân vũ trang xét duyệt, Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang triệu tập 252 cán bộ, chiến sỹ để tổ chức huấn luyện và chi viện cho chiến trường B, sau hơn 1 tháng học tập, đoàn lên đường vào Nam nhận nhiệm vụ, trong số này có 08 đồng chí được chi viện cho Gia Lai. Đây là căn cứ quan trọng để Bộ Tư lệnh BĐBP xác định lấy ngày 15/4/1965 là ngày thành lập lực lượng An ninh Vũ trang tỉnh Gia Lai (nay là BĐBP tỉnh Gia Lai theo Quyết định số 1111/QĐ-BTLBP, ngày 15/5/2013 của Bộ Tư lệnh BĐBP về việc công nhận Ngày truyền thống). Trong lúc đoàn đang trên đường hành quân vào Nam thì Tỉnh ủy Gia Lai triển khai thành lập Đại đội An ninh vũ trang làm công tác bảo vệ lãnh đạo, căn cứ Tỉnh ủy và canh giữ trại giam do đồng chí Song Thao làm Đại đội trưởng, đồng chí Sang làm Đại đội phó.

          Đầu tháng 5/1965, đoàn cán Bộ Công an nhân dân vũ trang do Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang điều vào đến căn cứ Tỉnh ủy. Sau khi tiếp nhận, Ban an ninh tỉnh biên chế 4 đồng chí về công tác tại ban, 4 đồng chí được biên chế về Đại đội An ninh vũ trang gồm đồng chí Sơn, đồng chí Phạm Hùng Cường, đồng chí Nguyễn Đình Lưu, đồng chí Bùi Viết Siêu (Bùi Ngọc Bích), đồng chí Bùi Viết Siêu được bổ nhiệm làm Chính trị viên đại đội.

    Từ giữa tháng 7/1965, thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 2 về việc xây dựng lực lượng chuẩn bị đánh Mỹ, Ban an ninh tỉnh tiến hành củng cố, sắp xếp lại lực lượng, thành lập “Tiểu ban An ninh vũ tranggọi tắt là B8, đồng thời tăng cường lực lượng kiện toàn Ban an ninh các khu, thành lập 2 đội An ninh vũ trang ở Khu 8 (An Khê) và  Khu 9 (Pleiku). Như vậy, về hệ thống tổ chức, đến tháng 7/1965, lực lượng An ninh vũ trang Gia Lai đã được tổ chức đồng bộ ở cả 3 cấp: ở tỉnh có Tiểu ban An ninh vũ trang (thuộc Ban an ninh tỉnh), có Đại đội An ninh vũ trang làm công tác bảo vệ, ở các khu có cán bộ phụ trách diệt ác trừ gian, Khu 8 và Khu 9 có đội trinh sát vũ trang an ninh.

    Quá trình xây dựng, hoàn thiện về mặt tổ chức của An ninh vũ trang cũng đồng thời là quá trình An ninh vũ trang góp phần cùng quân và dân trong tỉnh thực hiện chủ trương: “Tranh thủ tiến công diệt quân ngụy, đẩy chúng lún sâu hơn vào thế bị động, tiếp tục mở rộng vùng giải phóng, đánh phủ đầu quân Mỹ”.

  1. TỪ AN NINH VŨ TRANG ĐẾN CÔNG AN NHÂN DÂN VŨ TRANG VÀ BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH GIA LAI

Ngày 17/3/1975, Thị xã Pleiku được giải phóng. Ngày 23/3/1975, được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ban an ninh tỉnh, lực lượng An ninh vũ trang từ căn cứ Khu 10 chuyển về Thị xã Pleiku, phối hợp với đội An ninh vũ trang Khu 9 và các lực lượng khác bắt tay ngay vào tiếp quản các cơ quan cảnh sát, trại giam, trụ sở các đảng phái phản động, đồng thời gấp rút xây dựng lực lượng trong vùng giải phóng, triển khai lực lượng lập các chốt kiểm soát, tổ chức lực lượng bảo vệ các trụ sở làm việc của các cơ quan Tỉnh ủy, ủy ban quân quản thị xã; trụ sở các ban ngành, cơ quan cảnh sát, chiêu hồi, trại giam giữ của địch và tổ chức lực lượng tuần tra, kiểm soát, bảo vệ trật tự trị an trong thị xã.

Ngày 15/4/1975, Tỉnh ủy Gia Lai ra Nghị quyết về nhiệm vụ cấp bách nhằm ổn định vùng mới giải phóng. Thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy, An ninh vũ trang Gia Lai đã nhanh chóng phối hợp với các lực lượng tổ chức tiếp nhận, phân loại số đối tượng là ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện chính quyền cách mạng; tiến hành các biện pháp trấn áp bọn phản cách mạng, bọn chống đối, bọn tội phạm hình sự, truy bắt số ác ôn, đầu sỏ không chịu trình diện, nhằm bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở vùng mới giải phóng. Chỉ trong 3 tháng, lực lượng An ninh vũ trang đã truy bắt 200 tên ác ôn, ngụy quân, ngụy quyền lẩn trốn trình diện, thu 115 khấu súng các loại cùng nhiều phương tiện, tài liệu quan trọng.

Sau giải phóng, tình hình xã hội miền Nam nói chung và tỉnh Gia Lai nói riêng còn rất phức tạp, số ngụy quân, ngụy quyền sau một thời gian lẩn trốn đã câu kết với nhau chống phá chính quyền cách mạng. Được các thế lực thù địch bên ngoài tiếp tay chỉ đạo, chúng tổ chức vượt biên, xây dựng mật cứ, kích động quần chúng bạo loạn, tập kích vũ trang để cướp chính quyền. Bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ, giữ vững chính quyền cách mạng là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong giai đoạn này.

Trước tình hình trên, Đảng đoàn Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang: “Khẩn trương củng cố, kiện toàn tổ chức, xây dựng lực lượng Công an nhân dân vũ trang vững mạnh để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, kiện toàn bộ máy, tổ chức lãnh đạo, chỉ huy Công an nhân dân vũ trang các tỉnh phía nam, khẩn trương triển khai đồn trạm quản lý bảo vệ biên giới”.

Ngày 04/5/1975, đồng chí Thiếu tướng Huỳnh Thủ, Phó Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang ký Quyết định số 467/QĐ-QL, điều động 584 đồng chí cán bộ chiến sỹ Công an nhân dân vũ trang từ các tỉnh Cao Bằng, Lai Châu, Hà Giang chi viện cho lực lượng An ninh vũ trang một số tỉnh phía Nam; trong đó có 139 cán bộ, chiến sỹ được chi viện cho An ninh vũ trang Gia Lai. Tiếp đó, ngày 07/5/1975, Bộ Tư lệnh ký Quyết định số 453/QĐ-QL điều động đồng chí Đại úy Hà Văn Choóng – Đại úy, cán bộ Phòng Vân động quần chúng vào nhận công tác tại An ninh vũ trang tỉnh Gia Lai. Cùng thời gian này, Ban an ninh tỉnh Gia Lai quyết định điều 7 đồng chí từ An ninh vũ trang sang An ninh vũ trang biên phòng tỉnh Gia Lai, gồm các đồng chí: Đoàn Hồng Chương, Phạm Hùng Cường, Bùi Viết Siêu, Rơ Lan Nock, Đinh Minh Chuông, Đinh Đá, Đinh Tá; Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên và Ban chỉ huy quân sự tỉnh quyết định điều động 8 sỹ quan từ các đơn vị quân đội chuyển sang An ninh vũ trang biên phòng tỉnh Gia Lai, gồm các đồng chí: Lê Hồng Danh, Đào Xuân Tam, Nguyễn Chí Kiệm… Cùng với việc bố trí điều động về con người, Ban chỉ huy quân sự tỉnh Gia Lai thống nhất với Uỷ ban cách mạng thị xã Pleiku giao vị trí khu cư xá sỹ quan ngụy và khu cảnh sát dã chiến ngụy (khu vực nhà Bảo tàng tỉnh Gia Lai hiện nay) cho An ninh vũ trang biên phòng tỉnh Gia Lai bố trí cơ quan chỉ huy. Bộ phận An ninh vũ trang Gia Lai vừa được điều động sang An ninh vũ trang biên phòng chịu trách nhiệm tiếp quản vị trí đóng quân của lực lượng, chuẩn bị đón bộ phận chi viện từ miền Bắc vào.

Cuối tháng 5/1975, tại Thị xã Pleiku, Tỉnh ủy, Ban an ninh tỉnh cùng đại diện Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang công bố Quyết định thành lập Tiểu đoàn “An ninh nhân dân vũ trang biên phòng tỉnh Gia Lai”, thành lập Ban chỉ huy và các cơ quan giúp việc thuộc Ban chỉ huy, đồng thời công bố quyết định bổ nhiệm các chức danh thuộc Ban chỉ huy và trưởng các cơ quan giúp việc. Theo đó, đồng chí Đại úy Hà Văn Choóng được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng, các đồng chí Cao Ngọc Dũng, Bùi Viết Siêu, Đinh Tá được bổ nhiệm làm Chỉ huy phó; trưởng các ban giúp việc gồm: Ban Tham mưu: đồng chí Lê Hồng Danh; Ban Chính trị: đồng chí Nguyễn Văn Nhữ; Ban Trinh sát: đồng chí Nguyễn Doãn Trác; Ban Hậu cần: đồng chí Nguyễn Kiên.

Về triển khai các đồn biên phòng, trong giai đoạn 1975 – 1976, Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang quyết định thành lập ở tỉnh Gia Lai 04 đồn biên phòng([1]), mỗi đồn được biên chế 23 đồng chí, hình thành đủ bộ máy tổ chức chỉ huy, các đội nghiệp vụ và bộ phận phục vụ theo biên chế của 1 đồn Công an nhân dân vũ trang đang làm nhiệm vụ tại các tỉnh phía bắc. Bộ Tư lệnh quy định rõ phiên hiệu của các đồn thuộc quyền chỉ huy của Ban chỉ huy An ninh vũ trang biên phòng tỉnh Gia Lai là Đồn Biên phòng 19, Đồn Biên phòng 21, Đồn Biên phòng 23 và  Đồn Biên phòng 25. Về vị trí đóng đồn cụ thể, Bộ Tư lệnh giao cho An ninh vũ trang biên phòng tỉnh Gia Lai tổ chức khảo sát xác định với yêu cầu: đồn xa biên giới nhất không quá 2km, đồn gần biên giới nhất không quá 400m.

Thừa uỷ quyền của Bộ Tư lệnh, cuối tháng 12/1975, tại sở chỉ huy Công an nhân dân vũ trang tỉnh, Ban chỉ huy Công an nhân dân vũ trang  tỉnh đã công bố quyết định thành lập các ban thuộc cơ quan chỉ huy và quyết định bổ nhiệm thủ trưởng các ban: Tham mưu, Chính trị, Hậu cần và Trinh sát. Đồng chí Lê Hồng Danh được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng, 2 Tham mưu phó là đồng chí Trần Tiến Phủng và đồng chí Nguyễn Minh Hương; đồng chí Nguyễn Văn Nhữ được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm chính trị, 2 phó chủ nhiệm chính trị là đồng chí Chu Đức Lâm và đồng chí Đoàn Hồng Chương; Đồng chí Phan Thái Vân – Phó chỉ huy kiêm Trưởng ban trinh sát, 2 phó ban trinh sát là đồng chí Sa và đồng chí Nguyễn Doãn Trác; đồng chí Nguyễn Kiên được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm hậu cần, Phó chủ nhiệm hậu cần là đồng chí Vũ Định.

Thời gian này, đặc điểm lớn nhất chi phối toàn bộ quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác biên phòng và xây dựng lực lượng giai đoạn này là nhiệm vụ nặng nề nhưng công tác tổ chức chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.  Đồn Biên phòng 19 chưa triển khai được do thiếu quân số; nhiều Đồn Biên phòng không đủ đảng viên để thành lập cấp uỷ; đảng viên là cán bộ cấp đội hầu như không có. Bên cạnh đó, hầu hết cán bộ chiến sỹ được điều động từ các tỉnh phía bắc vào, chưa quen địa hình, chưa kịp thích nghi với điều kiện thời tiết khí hậu. Mặt khác, cùng một lúc và xây dựng, củng cố cơ sở vật chất, doanh trại vừa thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới, tham gia đấu tranh chống FULRO, truy quét tàn quân, giáo dục, cải tạo ngụy quân, ngụy quyền ở các xã biên giới, xử lý dân Campuchia chạy sang ta lánh nạn và thực hiện một loạt các công việc khác nhằm ổn định tình hình nhân dân trên khu vực biên giới sau ngày giải phóng.

Sau hai cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc kết thúc, để thống nhất sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy đối với các lực lượng vũ trang nhằm “tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, sẵn sàng chiến đấu chống xâm lược; khả năng bảo vệ độc lập chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia thời bình cũng như thời chiến”. Ngày 10/10/1979, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 22/NQ-TW về việc chuyển giao nhiệm vụ và lực lượng Công an nhân dân vũ trang từ Bộ Nội vụ sang Bộ Quốc phòng. Nghị quyết ghi rõ : “Chuyển giao sang Bộ Quốc phòng và chuyển thành Bộ đội Biên phòng toàn bộ lực lượng Công an nhân dân vũ trang do Bộ Nội vụ quản lý. Từ đây Công an nhân dân vũ trang chính thức đổi tên gọi là Bộ đội Biên phòng.

Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới, tình hình kinh tế – xã hội của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, song cũng còn nhiều nguy cơ, thách thức. Để phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, từng địa phương, Đảng, Nhà nước chủ trương chia tách, điều chỉnh, sắp xếp lại địa giới hành chính một số tỉnh. Thực hiện chủ trương đó, kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII đã ra Nghị quyết về việc thành lập lại một số tỉnh đã sát nhập trước đây trong đó có tỉnh Gia Lai – Kon Tum thành hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 21/8/1991, Hội đồng nhân dân tỉnh Gia Lai – Kon Tum (khóa VI) đã ra Nghị quyết về việc phân định địa giới và đơn vị hành chính của mỗi tỉnh sau khi chia tách. Cùng ngày 23/8/1991, Bộ Tư lệnh ra Quyết định số 176/QĐ-BTL về việc “Tách Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai – Kon Tum thành Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai và Bộ đội Biên phòng tỉnh Kon Tum”.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới, ngày 08/8/1995, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 11/NQ-TW về “xây dựng Bộ đội Biên phòng trong tình hình mới”, Nghị quyết nêu rõ “Để Bộ đội Biên phòng đảm đương được tốt vai trò nòng cốt, huy động và phối hợp với các lực lượng vũ trang khác, các ngành, các đoàn thể và nhân dân địa phương trong nhiệm vụ bảo vệ và quản lý vùng biên giới quốc gia, Bộ Chính trị quyết định chuyển Bộ đội Biên phòng từ Bộ Nội vụ về Bộ Quốc phòng”, Nghị quyết xác định rõ: “Bộ đội Biên phòng cần được xây dựng vững mạnh theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại có chất lượng cao, số lượng phù hợp, tổ chức hợp lý, chức năng, nhiệm vụ rõ ràng”, cụ thể là:  “Nhiệm vụ Bộ đội Biên phòng trong tình hình mới rất toàn diện và phức tạp bao gồm: Bảo vệ biên giới trên bộ, trên biển, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội, chống xâm nhập trái phép và chống buôn lậu qua biên giới, bảo vệ tài nguyên của đất nước. Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với các nước láng giềng”.

Ra đời trong những năm đầu quân và dân các dân tộc trong tỉnh Gia Lai trực tiếp chiến đấu chống quân xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai, từ năm 1965 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, Ban an ninh tỉnh, được sự đùm bọc chở che của đồng bào các dân tộc trong tỉnh, trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt, vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng. Càng chiến đấu, càng trưởng thành phát triển, An ninh vũ trang Gia Lai đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ căn cứ và các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy. Luôn bám dân, bám địa bàn, dựa vào dân, dũng cảm mưu trí, linh hoạt, táo bạo, bất ngờ tiến hành các hoạt động diệt ác, trừ gian, cùng quân dân trong tỉnh giữ dân, phá kìm, dành quyền làm chủ, góp phần cùng quân và dân cả nước làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn chiến tranh thâm độc của kẻ địch và bọn gián điệp, biệt kích, Mỹ – Ngụy. Trong 10 năm xây dựng và chiến đấu, An ninh vũ trang Gia Lai đã diệt 562 tên địch, bắn bị thương 314 tên, bắt sống 211 tên; góp phần quan trọng cùng quân và dân cả nước lập nên kỳ tích trong chặng đường lịch sử hào hùng của dân tộc, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Để có được những thành tích vẻ vang đó, hàng chục cán bộ, chiến sỹ An ninh vũ trang Gia Lai đã anh dũng hy sinh, hàng trăm đồng chí đã để lại một phần xương máu trên chiến trường.

Sau ngày giải phóng, được sự chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang, của cấp ủy, chính quyền địa phương, sự chi viện to lớn, hiệu quả của Công an nhân dân vũ trang các tỉnh Lai Châu, Bình Trị Thiên…, Công an nhân dân vũ trang Gia Lai vừa khẩn trương củng cố tổ chức, triển khai đồn trạm, vừa nhanh chóng bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ mới, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia, chống lại mọi âm mưu thủ đoạn phá hoại của bọn phản động. Trước các hoạt động thù địch trên khu vực biên giới của nhà cầm quyền “Campuchia dân chủ” và hoạt động chống phá cách mạng của bọn phản động FULRO, một lần nữa ý chí “Dũng cảm trước địch, vì nước quên thân, trung thành với Đảng, tận tụy với dân” của cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân vũ trang tỉnh Gia Lai tiếp tục được tôi luyện và thử thách. Trong 13 năm vừa củng cố, xây dựng lực lượng, vừa tham gia chiến đấu chống quân Khơme đỏ xâm lược và bọn FULRO, cán bộ chiến sỹ Công an nhân dân vũ trang Gia lai luôn dũng cảm chiến đấu, chủ động tiến công tiêu diệt địch, khắc phục mọi thiếu thốn, bám dân, bám địa bàn, xây dựng cơ sở chính trị, phát động phong trào cách mạng.

Trong cuộc chiến đấu chống quân Khơme đỏ xâm lược, ngay từ trận đầu ra quân, Đồn Biên phòng 653 diệt gọn một tốp địch, tiếp đó là các đồn biên phòng 649, 629, 657 và 02 đại đội cơ động đều lập công xuất sắc tạo nên phong trào thi đua tìm địch mà diệt ở khắp các đơn vị. Trong cuộc chiến đấu này, quân và dân Gia Lai – Kon Tum đã đánh 120 trận, diệt hàng trăm tên; riêng lực lượng Công an nhân dân vũ trang Gia lai – Kon Tum đã độc lập chiến đấu 20 trận, diệt 60 tên địch, phối hợp với các lực lượng chiến đấu 09 trận, diệt 39 tên. Để hoàn thành nhiệm vụ, Công an nhân dân vũ trang Gia Lai – Kon Tum cũng chịu những tổn thất không nhỏ, 47 đồng chí hy sinh, 64 đồng chí đã để lại một phần máu thịt của mình nơi biên giới. Đặc biệt trong trận chiến đấu “Tử thủ” 09 ngày đêm (từ 18 – 26/6/1978) bảo vệ đồn 649 (đồn BPCKQT Lệ Thanh hiện nay), cán bộ, chiến sỹ đơn vị đã dũng cảm, kiên cường bám trụ, chiến đấu trước sự bao vây của 01 Tiểu đoàn quân Khơme đỏ, trong trận chiến đấu này đã có nhiều đồng chí bị thương và anh dũng hy sinh, ngày 20/12/1979, đồn 649 vinh dự được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân([2]).

Chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc, thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả với nước bạn Campuchia, Công an nhân dân vũ trang tỉnh Gia lai đã kịp thời chi viện lực lượng, sang giúp bạn bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ. Quán triệt quan điểm “giúp bạn là tự giúp mình” các Đại đội 5 (Tiểu đoàn Đăk Lăk – Gia Công), Đại đội 4 (Trung đoàn 20), Phân đội 307, đoàn chuyên gia đã không ngại khó khăn gian khổ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Trong tham gia đấu tranh, truy quét bọn phản động FULRO, cùng với quân và dân trong tỉnh, Bộ đội Biên phòng Gia Lai – Kon Tum đã liên tục tổ chức các hoạt động truy quét đều khắp ở cả nội và ngoại biên, thực hiện nhiều chuyên án đấu tranh làm rõ và bóc gỡ, vô hiệu hóa các khung chính quyền và cơ sở ngầm, làm trong sạch địa bàn biên giới, chặt đứt các hành lang đưa đón của chúng giữa nội và ngoại biên, tạo điều kiện để các lực lượng đẩy mạnh truy quét các căn cứ của chúng trong nội địa. Cùng với việc đấu tranh, truy quét bọn phản động FULRO, Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai – Kon Tum đã tích cực, chủ động trong thực hiện nhiệm vụ chống vượt biên, xâm nhập, góp phần làm thất bại âm mưu, ý đồ chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.

Đất nước đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ biên giới đặt ra nhiều yêu cầu và đòi hỏi cao đối với lực lượng Bộ đội Biên phòng. Cùng với sự chuyển mình đi lên của cả nước, của lực lượng Bộ đội Biên phòng nói chung, Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai đã không ngừng được củng cố, xây dựng và phát triển đi lên, cụ thể: Ngày 23/8/1991, Bộ Tư lệnh ra Quyết định số 176/QĐ-BTL về việc “Tách Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai – Kon Tum thành Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai và Bộ đội Biên phòng tỉnh Kon Tum”, đồng thời cán bộ, chiến sỹ các đồn biên phòng 717, 721, 725, 729 và Đại đội 3 cơ động nằm trên địa giới hành chính tỉnh Gia Lai sẽ giao khung chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai; Đại đội 19 huấn luyện thuộc Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai, trước mắt huấn luyện chiến sỹ mới cho Bộ đội biên phòng cả hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum; các trung đội, các ban trực thuộc, bệnh xá trên cơ sở quân số hiện có, căn cứ vào mẫu biên chế mới mỗi tỉnh, nghiên cứu phân chia để đảm bảo yêu cầu phục vụ chỉ huy chỉ đạo của chỉ huy biên phòng mỗi tỉnh; Ngày 25/11/1994, Bộ Nội vụ có Quyết định số 1237/QĐ – BNV về việc thành lập Đồn Biên phòng Ia Púch phiên hiệu 727 thuộc Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới trong tình hình mới, thực hiện Quyết định số 76/QĐ-BTL ngày 04/3/2002 của Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng, sau một thời gian chuẩn bị, tháng 6/2002, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh đã triển khai thành lập Đồn Biên phòng Ia Chía, phiên hiệu 719.

Sau vụ bạo loạn chính trị tháng 2/2001, trước tình hình đồng bào người dân tộc thiểu số vượt biên trái phép sang Campuchia ngày càng có chiều hướng phức tạp, Bộ Quốc phòng có chủ trương thành lập mới Đồn Biên phòng, di chuyển đồn, trạm, công trình chiến đấu, đường tuần tra biên giới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Bộ đội Biên phòng trong thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới, đấu tranh có hiệu quả với các họat động vượt biên, xâm nhập trái phép. Thực hiện chủ trương của trên, sau khi cùng các ngành chức năng thống nhất về số lượng, vị trí đồn trạm thành lập mới, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh đã khẩn trương tiến hành việc triển khai thành lập đồn 731 theo Quyết định số 506/2003/QĐ-BQP ngày 19/5/2003 của Bộ Quốc phòng, đến ngày 9/2/2004, Đồn Biên phòng 731 bắt đầu triển khai thực hiện nhiệm vụ.

Tiếp đến, ngày 14/7/2004, sau gần 2 tháng chuẩn bị, Đồn Biên phòng 723 chính thức được triển khai theo quyết định 67/2004/QĐ-BQP ngày 17/5/2004 của Bộ Quốc phòng. Cùng với việc triển khai 2 đồn Biên phòng nói trên, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh đã triển khai thực hiện Quyết định số 608/QĐ-BTL ngày 10/10/2003 của Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng về việc thành lập Trạm Kiểm soát Suối Pa thuộc Đồn Biên phòng 729; Quyết định số 210/QĐ-BTL ngày 5/4/2004 về việc thành lập Trạm Kiểm soát Phà 8 thuộc Đồn Biên phòng 717, tái lập Trạm Kiểm soát K3 thuộc Đồn Biên phòng 723 và Trạm Kiểm soát 383 thuộc Đồn Biên phòng 727.

Ngày 19/4/2006, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng có Kế hoạch số 309/KH-BTL để tổ chức triển khai thực hiện Quyết định 186/2005/QĐ-BQP của Bộ Quốc phòng về việc kiện toàn lại tổ chức lực lượng của một số cơ quan, đơn vị thuộc Bộ đội Biên phòng từ 2006 đến 2010. Theo đó, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai được nâng cấp là Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh hạng 1. Đại đội huấn luyện, Đội cơ động và Đội trinh sát đặc nhiệm thuộc Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai sát nhập thành Tiểu đoàn huấn luyện – Cơ động.

Ngày 18/11/2008, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 3812/QĐ-BQP về việc thành lập Phòng phòng chống tội phạm ma túy thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai, 27/2/2009, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh đã có kế hoạch 149/KH-BCHBP triển khai thực hiện quyết định việc thành lập Phòng Phòng, chống tội phạm ma túy thuộc Bộ chỉ huy và hai đội phòng chống tội phạm ma túy ở các đồn biên phòng 717 và 721, thực hiện việc chuyển giao nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội từ Phòng Trinh sát sang Phòng Phòng, chống tội phạm ma túy. Ngày 19/3/2009 Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh đã có Kế hoạch số 217/KH-BCHBP triển khai thực hiện quyết định thành lập Văn phòng Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai.

Căn cứ vào kế hoạch số 541/KH-BTLBP, ngày 19/4/2010 của Bộ Tư lệnh, Thường vụ Đảng ủy Bộ đội Biên phòng tỉnh đã tiến hành chuẩn bị nhân sự chủ chốt của Phòng Hậu cần và Phòng Kỹ thuật đề nghị Thường vụ Đảng ủy Bộ đội Biên phòng bổ nhiệm, đồng thời xây dựng kế hoạch thực hiện quyết định chia tách phòng Hậu cần – Kỹ thuật thành Phòng Hậu cần và Phòng Kỹ thuật. Sau 14 năm chia tách, năm 2024 thực hiện Quyết định số 6511/QĐ – BQP, ngày 12/12/2023 của Bộ Quốc phòng về việc sát nhập và tổ chức lại Phòng Hậu cần – Kỹ thuật thành phòng Hậu cần – Kỹ thuật các đơn vị thuộc Bộ đội biên phòng. Ngày 31/01/2024 Đảng ủy, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh đã triển khai kế hoạch và làm Lễ sát nhập tổ chức Đảng và đơn vị hành chính của 02 phòng Hậu cần và Kỹ thuật thành phòng Hậu cần – Kỹ thuật.

Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm là quản lý bảo vệ biên giới, cán bộ, chiến sỹ biên phòng tỉnh luôn quán triệt thực hiện phương châm “ba bám, bốn cùng”, tích cực củng cố xây dựng cơ sở chính trị gắn với đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội góp phần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân biên giới. Hình ảnh những chiến sỹ biên phòng dũng cảm đấu tranh trên mặt trận phòng chống tội phạm, những thầy giáo, những thầy thuốc quân hàm xanh ngày đêm tận tụy bám bản, bám làng chăm sóc sức khỏe, mang cái chữ và ánh sáng văn hóa đến cho đồng bào nơi biên giới luôn sâu đậm trong lòng  mỗi người dân. Là những người thấu hiểu những khó khăn vất vả của đồng bào các dân tộc trên khu vực, địa bàn biên giới với tình cảm, trách nhiệm, tấm lòng tri ân của mình, cùng với việc vận động quần chúng nhân dân thực hiện các chương trình định canh, định cư, cán bộ chiến sỹ Bộ đội Biên phòng tỉnh đã góp hàng ngàn ngày công, di chuyển, sửa chữa và làm mới hàng trăm ngôi nhà; cùng với địa phương xây dựng các mô hình điểm về phát triển kinh tế hộ gia đình, từ đó đã từng bước thay đổi và xóa bỏ tập quán canh tác “đốt, phát, trọc, tỉa”, chuyển từ phương thức sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa.  Nhờ vậy đời sống đồng bào các dân tộc trên khu vực biên giới đã có sự khởi sắc, tỉ lệ hộ đói, hộ nghèo ngày một giảm, quần chúng nhân dân ngày càng vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ và cấp ủy, chính quyền các cấp, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia.

          Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước đang trên đà phát triển, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đứng trước những thuận lợi và khó khăn, thách thức mới, các thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng nước ta, chúng đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm gây mất ổn định chính trị, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân phục vụ cho âm mưu thâm độc của chúng. Sau một thời gian ngấm ngầm phục hồi tổ chức dưới vỏ bọc đạo Tin Lành thuần túy, được sự chỉ đạo, tiếp tay từ bên ngoài, ngày 01/02/2001, bọn phản động FULRO ở trong nước đã gây ra vụ bạo loạn chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên. Sau cuộc bạo loạn không thành, chúng tiếp tục tổ chức một số cuộc bạo loạn khác, đồng thời kích động, xúi dục, cưỡng ép, lôi kéo một số đồng bào dân tộc thiểu số vượt biên trái phép sang Campuchia để đi nước thứ ba. Trước tình hình trên, để đấu tranh với các hoạt biểu tình, bạo loạn, phát triển “Tin lành Đề Ga” và vượt biên trái phép, Đảng ủy Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh đã thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị triển khai đồng bộ các biện pháp công tác biên phòng, kết hợp giữa công tác vận động quần chúng với tăng cường triển khai bố trí lực lượng trên các hướng, địa bàn trọng điểm, đẩy mạnh tuần tra kiểm soát; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng bảo vệ biên giới của Campuchia. Cùng với việc triển khai các biện pháp công tác nói trên, Bộ đội Biên phòng tỉnh đã xác lập một số chuyên án nhằm đấu tranh với các hoạt động phát triển “Tin Lành Đê Ga” và tổ chức vượt biên trái phép cả ở trong và ngoài biên giới. Qua các biện pháp công tác và đấu tranh chuyên án, từ năm 2001 đến nay, ta đã triệt phá 43 đường dây móc nối, đưa đón vượt biên, (bắt 217 đối tượng cầm đầu); bắt giữ 79 vụ, 359 đối tượng là người dân tộc thiểu số vượt biên; phối hợp với lực lượng bảo vệ biên giới Campuchia bắt 4 vụ, 43 đối tượng; ngoài ra, ta đã kịp thời thông báo cho phía Campuchia bắt và bàn giao cho ta 62 vụ, 526 đối tượng, thu thập, cung cấp chứng cứ để đề nghị phía Campuchia bắt và xử lý 9 vụ, 27 đối tượng. Trong đấu tranh với hoạt động phát triển “Tin Lành Đê Ga”, Bộ đội Biên phòng tỉnh đã phối hợp triệt phá, bóc gỡ 07 vụ, 08 nhóm ở 09 làng thuộc 04 xã biên giới với 334 lượt đối tượng tham gia “ Tin Lành Đê Ga”, đưa tấn công chính trị 45 lượt đối tượng, xử lý hành chính 37 đối tượng là cốt cán hoặc hoạt động tích cực trong tổ chức “Tin Lành Đê Ga”; Kịp thời ngăn chặn 40 đối tượng chuẩn bị đi tham gia biểu tình trong nội địa.

Trong thời kỳ đất nước đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ biên giới đặt ra yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao đối với lực lượng Bộ đội Biên phòng nói chung, Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai nói riêng. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai đã không ngừng được củng cố theo đúng quy định về tổ chức, biên chế và phát triển đi lên, đến nay BĐBP tỉnh có các cơ quan gồm: Tham mưu, Chính trị, Trinh sát, Phòng chống Ma túy & tội phạm, Hậu cần – Kỹ thuật, Văn phòng, Ban Tài chính thuộc khối cơ quan Bộ Chỉ huy; trên tuyến biên giới đã thành lập hệ thống đồn, trạm hoàn chỉnh với 08 đồn Biên phòng và 01 Tiểu đoàn Huấn luyện-Cơ động.

Với vai trò là lực lượng chuyên trách, nhiệm vụ chính trị trọng tâm của các đơn vị BĐBP tỉnh đảm nhiệm quản lý bảo vệ 80,485km đường biên giới tiếp giáp với nước bạn CPC, trong điều kiện nhiều khó khăn cả về địa hình, khí hậu tự nhiên, đặc điểm xã hội và lịch sử đường biên giới đang trong quá trình hoạch định, phân giới, cắm mốc. Địa bàn biên giới gồm 07 xã thuộc 03 huyện biên giới, có 22 dân tộc anh em sinh sống. Những năm gần đây được sự quan tâm đầu tư của Trung ương và địa phương, KT-XH, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trên khu vực biên giới của tỉnh đã có bước phát triển, tuy nhiên vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề chủ quyền, lãnh thổ, dân tộc, tôn giáo, xuyên tạc chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng, phát triển lực lượng ngầm, kích động, dụ dỗ, lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số vượt biên trái phép sang CPC để đi nước thứ 3…cùng với đó hoạt động của các loại tội phạm về trật tự xã hội diễn biến hết sức phức tạp đã tác động ảnh hưởng không nhỏ tới nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.

Quán triệt, thực hiện nghiêm túc yêu cầu, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới trong tình hình mới, Đảng uỷ, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ toàn diện các biện pháp công tác biên phòng, chủ động nắm chắc mọi diễn biến tình hình, kịp thời phát hiện đấu tranh làm thất bại âm mưu “DBHB”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới. Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, các lực lượng đứng chân trên địa bàn cùng với lực lượng bảo vệ biên giới của CPC thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ biên giới, bảo vệ thành quả công tác phân giới, cắm mốc, đấu tranh hiệu quả với các loại tội phạm trên biên giới. Thực hiện có hiệu quả công tác đối ngoại ở các cấp, trong đó công tác đối ngoại Biên phòng, đối ngoại nhân dân được đẩy mạnh; Bộ đội Biên phòng tỉnh luôn làm tốt công tác tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương tổ chức kết nghĩa giữa 05 cặp/10 thôn(làng) hai bên biên giới, góp phần nâng cao nhận thức, tình cảm trách nhiệm và tang cường mối quan hệ đoàn kết của đồng bào các dân tộc hai bên biên giới, nâng cao ý thức rõ hơn về quốc gia, quốc giới, về trách nhiệm đối với chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới, ý nghĩa của việc xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.

Trong giai đoạn 2020 – 2025, tình hình thế giới, khu vực, trong nước có những diễn biến mới, phức tạp, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục chống phá cách mạng nước ta trên mọi lĩnh vực; tình hình dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp đã tác động ảnh hưởng lớn đến đời sống của Nhân dân và thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai, Đảng ủy, Bộ Chỉ huy và cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng tỉnh đã đoàn kết, thống nhất, khắc phục mọi khó khăn, nỗ lực phấn đấu quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia và phòng, chống dịch Covid 19; duy trì và thực hiện có hiệu quả công tác đối ngoại biên phòng, ngoại giao nhân dân; xây dựng nền Biên phòng toàn dân vững chắc. Tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, thực hiện các chương trình, mô hình an sinh xã hội trên khu vực biên giới; phối hợp hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng thực hiện thắng lợi “nhiệm vụ kép” vừa quản lý, bảo vệ biên giới, vừa tham gia phòng, chống dịch Covid-19 có hiệu quả, được cấp ủy, chính quyền địa phương và quần chúng Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao góp phần tô thắm hình ảnh truyền thống của lực lượng Bộ đội Biên phòng anh hùng và hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Trải qua 60 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, cùng với sự phát triển chung của lực lượng BĐBP, Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai cũng nhiều lần thay đổi về tên gọi, về tổ chức, biên chế. Song, dù tên gọi, tổ chức biên chế có thay đổi, nhưng tính chất, nhiệm vụ, địa bàn hoạt động của Bộ đội Biên phòng tỉnh cơ bản không có gì thay đổi, vẫn luôn là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ biên giới, là chỗ dựa tin cậy, vững chắc cho cấp ủy, chính quyền địa phương và đồng bào các dân tộc trên khu vực, địa bàn biên giới của tỉnh trong xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển với nước bạn Campuchia, với những thành tích đã đạt được, Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai có 03 tập thể vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 06 lượt tập thể cùng hàng chục cán bộ, chiến sỹ được tặng Huân chương chiến công các hạng, hàng trăm lượt cán bộ, chiến sỹ được tặng danh hiệu Chiến sỹ quyết  thắng, Chiến sỹ thi đua, bằng, giấy khen và nhiều phần thưởng cao quý khác. Nhiều cán bộ, chiến sỹ được tôi luyện, thử thách, trưởng thành trong chiến đấu và công tác, có 02 đồng chí được bầu làm đại biểu Quốc hội (Đại tá Nguyễn Hồng Viên, nguyên là Chỉ huy trưởng BĐBP tỉnh; Đại tá Rơ Mah Tuân – Chính ủy BĐBP tỉnh), 06 đồng chí trưởng thành lên cấp tướng (Thiếu tướng Đinh Hồng Đe, nguyên Phó tư lệnh BĐBP, nguyên chiến sỹ Công an nhân dân vũ trang tỉnh Gia Lai – Kon Tum; Thiếu tướng Trần Đình Dũng, nguyên Phó Tư lệnh BĐBP, nguyên trinh sát viên Công an nhân dân vũ trang tỉnh Gia lai; Thiếu tướng Nguyễn Xuân Quảng, nguyên Chủ nhiệm chính trị BĐBP, nguyên là cán bộ chính trị BĐBP Gia lai; Thiếu tướng Hoàng Đăng Nhiễu – nguyên Phó Tư lệnh BĐBP – nguyên là Đồn trưởng Đồn Biên phòng IaMơr (729); Thiếu tướng Nguyễn Đình Khẩn – Nguyên Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu, nguyên Phó Chỉ huy trưởng BĐBP tỉnh; Thiếu tướng Vũ Trung Kiên, Phó Tư lệnh Cảnh Sát biển Việt Nam, nguyên là Chỉ huy trưởng BĐBP tỉnh).

III. TRUYỀN THỐNG VẺ VANG BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH GIA LAI

Cùng với các thế hệ cán bộ cha, anh đi trước, lớp lớp cán bộ, chiến sỹ Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia lai đã không quản ngại khó khăn, gian khổ, đoàn kết một lòng, cùng nhau viết tiếp những trang sử vinh quang, những nét đẹp truyền thống đó là:

  1. Tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, quyết tâm bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trong mọi tình huống.

Là lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng, Bộ đội Biên phòng nói chung, Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai nói riêng luôn chiến đấu và sẵn sàng hy sinh cho mục tiêu lý tưởng của Đảng và của Bác Hồ, luôn lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam  cho mọi hành động, luôn phục tùng tuyệt đối sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong thực hiện nhiệm vụ quản lý bảo vệ biên giới quốc gia trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Cán bộ, chiến sỹ Bộ đội Biên phòng luôn nhận thức rất sâu sắc về sự toàn vẹn của chủ quyền lãnh thổ quốc gia, theo quan điểm một tấc đất của cha ông dù là sỏi đá cũng không được để mất, sẵn sàng chiến đấu hy sinh để bảo vệ toàn vẹn từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.

          Quá trình thực hiện nhiệm vụ, cán bộ, chiến sỹ Bộ đội Biên phòng tỉnh luôn đề cao cảnh giác, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; tỉnh táo, khôn khéo, linh hoạt sử dụng đúng đối sách với từng loại đối tượng, vừa bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị vừa tích cực tham gia và tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, xứng đáng với sự tin cậy và là chỗ dựa vững chắc của cấp ủy, chính quyền và đồng bào các dân tộc trên khu vực biên giới.

  1. Cảnh giác, mưu trí, dũng cảm trong chiến đấu, quyết thắng mọi kẻ thù, đấu tranh kiên quyết với các loại tội phạm, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao

Trong chiến đấu, cán bộ, chiến sỹ Bộ đội Biên phòng tỉnh luôn dũng cảm, mưu trí, kiên quyết tiến công địch, chủ động, sáng tạo vận dụng cách đánh phù hợp, dựa vào dân, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng vũ trang, không quản ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ.

 Trong đấu tranh với các âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, luôn nắm vững và thực hiện đúng chủ trương, đối sách, xử lý nhạy bén kịp thời với các tình huống xảy ra, không để bị động bất ngờ, vừa kết hợp tuyên truyền vận động vừa kiên quyết đấu tranh, trấn áp, kịp thời phát hiện và phối hợp giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ quần chúng nhân, không để kẻ địch lợi dụng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên khu vực biên giới.

  1. Gắn bó máu thịt với nhân dân; đoàn kết, phối hợp với các ngành, các lực lượng; phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng và bảo vệ biên giới

Luôn giữ vững và tăng cường quan hệ đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân, chủ động tham gia xây dựng và phát huy vai trò trách nhiệm của các đoàn thể quần chúng, cơ sở chính trị ở địa phương; tranh thủ vai trò của già làng, người có uy tín ở các thôn làng, vận động nhân dân tích cực tự giác tham gia bảo vệ biên giới.

Luôn xác định “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”, đồng cam cộng khổ, chia ngọt, sẻ bùi; thực hiện “ba bám, bốn cùng” với cấp ủy, chính quyền và đồng bào các dân tộc trên khu vực biên giới; phối hợp chặt chẽ và tích cực tham gia thực hiện hiệu quả các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong củng cố, tăng cường xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân trong nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở khu vực biên giới.

  1. Đoàn kết nội bộ, trên dưới một lòng, đồng cam cộng khổ, thực hiện “liêm, chính, kiệm, cần”, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực tiêu biểu”.

 Luôn nêu cao phẩm chất kiên cường của người chiến sỹ cách mạng, khắc phục vượt qua mọi khó khăn thử thách, đoàn kết, gắn bó trong tình thương yêu đồng chí đồng đội, sẵn sàng chia sẻ, quan tâm giúp đỡ nhau, tạo sự đồng tâm nhất trí, trên dưới một lòng.

Phát huy dân chủ, giữ vững đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, nâng cao tinh thần tự lực, tự cường, năng động sáng tạo trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, chăm lo xây dựng đơn vị vững mạnh chính quy, thực hiện nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu; thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, chống những biểu hiện giảm sút ý chí chiến đấu, ngại khó, ngại khổ xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, giữ nghiêm kỷ luật, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, chiến sỹ.

  1. Giữ vững đoàn kết quốc tế, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị với nước bạn Campuchia

Từ ngày triển khai lực lượng thực hiện nhiệm vụ quản lý bảo vệ biên giới đến nay, Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai luôn quán triệt và thực hiện đúng đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Trong quan hệ đối ngoại biên phòng, luôn giữ đúng nguyên tắc, có lý, có tình, trên cơ sở hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; chủ động gặp gỡ trao đổi để giải quyết những vấn đề nảy sinh trên biên giới .

Luôn chủ động phối hợp và tăng cường mối quan hệ tương trợ giúp đỡ nhau với các lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới của nước bạn Campuchia trên cơ sở khai thác tối đa những đồng thuận để xây dựng biên giới hoà bình hữu nghị, vừa đấu tranh kiên quyết với các hành vi vi phạm chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới, song cũng luôn quan tâm, giúp đỡ kịp thời, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng bảo vệ biên giới của bạn làm nhiệm vụ.

Phát huy tình đoàn kết, hữu nghị quan hệ gắn bó lâu đời giữa chính quyền và nhân dân hai bên biên giới; tạo điều kiện thuận lợi cho quần chúng nhân dân làm ăn, sản xuất, quan hệ thăm thân, hiểu biết, tôn trọng phong tục tập quán, pháp luật của mỗi nước, góp phần xây dựng khu vực biên giới hai bên ngày càng ổn định và phát triển.

Nhìn lại chặng đường 60 năm qua, mỗi cán bộ, chiến sỹ Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai tự hào với truyền thống vẻ vang của lực lượng, tự hào với những chiến công, thành tích của Bộ đội Biên phòng tỉnh.  Như một quy luật tất nhiên, các thế hệ cán bộ, chiến sỹ Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai hôm nay và mai sau sẽ kế tục xứng đáng truyền thống của thế hệ cha anh đi trước. Lịch sử Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai sẽ được viết tiếp những trang sử mới hào hùng hơn./.

                                                                     PHÒNG CHÍNH TRỊ BĐBP GIA LAI

                                                                   

Trả lời