Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. 90 năm qua kể từ ngày thành lập (3/2/1930 – 3/2/2020), Đảng ta đã trải qua 12 lần Đại hội đại biểu toàn quốc với 11 đồng chí Tổng Bí thư. Với một Đảng cách mạng chân chính, mỗi kỳ đại hội Đảng là một mốc son lịch sử, ghi nhận những thắng lợi, những thành tựu rất quan trọng có ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá đều bắt nguồn sâu xa từ việc vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, thể hiện bằng cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn, kiên định một con đường vì nước, vì dân; làm rạng rỡ non sông, đất nước. Nhân Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng tôi xin trích giới thiệu dấu ấn của các đồng chí Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của mình.
1.Tổng Bí thư Trần Phú (1904 – 1931)
Quê quán: Xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh; là vị Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hoạt động cách mạng tuy chỉ trong một thời gian ngắn, nhưng đồng chí Trần Phú sớm trở thành người học trò xuất sắc của lãnh tụ Hồ Chí Minh và có những cống hiến to lớn cho Đảng, cho dân tộc và cho sự nghiệp cách mạng Đông Dương.
Nói đến Trần Phú, không thể không nói đến Bản dự thảo Luận cương chính trị của Đảng năm 1930 mà đồng chí là người chắp bút. Trong điều kiện Đảng ta mới thành lập, trình độ lý luận trong Đảng còn hạn chế, cùng với Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, Luận cương chính trị đã góp phần hình thành đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Trước khi mất vào ngày 06/9/1931 do lâm bệnh nặng, đồng chí Trần Phú dặn các đồng chí của mình: “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”. Câu nói đó của Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta mới 27 tuổi đã hiệu triệu biết bao người Việt Nam yêu nước cống hiến, xả thân hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân.
2.Tổng Bí thư Lê Hồng Phong
Quê quán: Xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
Tổng Bí thư Lê Hồng Phong là một người học trò xuất sắc cảu Chủ Tịch Hồ Chí Minh, một chiến sĩ cộng sản tiêu biểu. Cuộc đời hoạt động, cống hiến cho Đảng, cho cách mạng và nhân dân của đồng chí Lê Hồng Phong tuy ngắn ngủi, nhưng để lại cho chúng ta một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng.
Tháng 03-1935, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng diễn ra tại Ma Cao (Trung Quốc), đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Tháng 07 – 1935, đồng chí đi dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ VII và được cử làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.
Ngày 06-09-1942, đồng chí Lê Hồng Phong đã hy sinh tại nhà tù Côn Đảo. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, đồng chí đã gắng nói to lên nhắn với đồng chí nằm ở buồng bên cạnh: “Xin chào tất cả các đồng chí. Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng tới giờ phút cuối cùng Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng”. Cuộc đời hoạt động của Tổng Bí thư Lê Hồng Phong là biểu tượng về lòng trung thành, ý chí kiên cường, bất khuất của người cộng sản.
3.Tổng Bí thư Hà Huy Tập (1902 – 1941)
Quê quán: Xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Tháng 07-1936, đồng chí Hà Huy Tập cùng đồng chí Lê Hồng Phong triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ở Thượng Hải (Trung Quốc) để bổ sung nghị quyết của Trung ương trước tình hình mới. Tại hội nghị này, đồng chí Hà Huy Tập được bầu làm Tổng Bí thư thay đồng chí Lê Hồng Phong. Sau đó, đồng chí trở về Sài Gòn cùng cơ quan Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước.
Chỉ trong 18 tháng với trọng trách Tổng Bí thư, đồng chí Hà Huy Tập đã hoạt động không ngừng nghỉ và có những cống hiến to lớn, cùng tập thể Ban Chấp hành Trung ương xác định đường lối chiến lược và sách lược cách mạng đúng đắn; trở thành một trong những nhà lý luận xuất sắc của Đảng. Với tư duy sắc sảo và tính chiến đấu cao, đồng chí thể hiện bản lĩnh của một chiến sĩ cộng sản kiên cường trước mọi sự tiến công xuyên tạc của kẻ thù. Trong 16 năm kể từ khi tham gia hoạt động cách mạng đến lúc hy sinh (26-8-1941) khi mới 35 tuổi, đồng chí Hà Huy Tập sống một cuộc đời cách mạng sôi nổi và vinh quang, hết lòng vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
“Nếu còn sống tôi sẽ tiếp tục hoạt động”, đó là di huấn cuối cùng của cố Tổng Bí thư Hà Huy Tập.
4.Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ (1912 – 1941)
Quê quán: Xã Phù Khê, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1938, khi chưa đầy 26 tuổi, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương – Tổng Bí thư trẻ nhất trong lịch sử Đảng ta.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ là nhà lý luận xuất sắc và là nhà chính trị tài năng, là tấm gương tiêu biểu về tinh thần tự học tập, rèn luyện và trưởng thành qua đấu tranh cách mạng. Trong 29 năm tuổi đời với hơn 13 năm tham gia cách mạng, 7 năm bị giam cầm trong nhà tù đế quốc, hơn 2 năm làm Tổng Bí thư, hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ, nhưng những cống hiến của đồng chí Nguyễn Văn Cừ đối với Đảng và dân tộc ta vô cùng to lớn. Đặc biệt, trên cương vị là Tổng Bí thư, nhận thấy tình hình quốc tế đang có những chuyển biến bất lợi cho cách mạng Việt Nam và Đông Dương nên đồng chí đã sớm đặt vấn đề chuyển hướng chiến lược của Đảng. Nhờ đó phong trào cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ theo chiều hướng mới, lực lượng cách mạng cũng tránh được tổn thất lớn khi kẻ địch trở mặt đàn áp, góp phần đưa đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lịch sử.
5.Tổng Bí thư Trường Chinh (1907 – 1988)
Quê quán: Xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Đồng chí Trường Chinh là nhà lãnh đạo nghiêm cẩn, rất coi trọng lý luận và hết sức nguyên tắc nhưng lại được coi là Tổng Bí thư của “Đổi mới”. Từ đường lối đổi mới của Đại hội VI do Tổng Bí thư Trường Chính đặt nền móng, đất nước đã vượt qua được khó khăn và vươn lên đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử.
Tháng 5/1941, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 diễn ra tại Pác Bó, Cao Bằng, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư.
Sau này, đồng chí Trường Chinh trở thành cộng sự, người học trò gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và được xem là nhà lãnh đạo kiệt xuất trong những bước ngoặt của cách mạng Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh cùng tập thể Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến và giành thắng lợi to lớn, ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc ta. Đồng chí lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng khác: Như 2 lần trở thành Tổng Bí thư giai đoạn 1941 – 1956 và thời kỳ 1986; Chủ tịch Quốc hội các khóa V, VI; Chủ tịch Hội đồng Nhà nước thời kỳ 1981-1987. Trên cương vị Tổng Bí thư, trong quá trình chuẩn bị Đại hội VI, đồng chí Trường Chinh từng nói “Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn”.
6. Tổng Bí thư Lê Duẩn (1907-1986)
Quê quán: Xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Có mặt trong đội ngũ những người cộng sản ngay từ khi Đảng mới ra đời, với gần 60 năm hoạt động cách mạng, trong đó có 26 năm trên cương vị Bí thư thứ Nhất và Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Lê Duẩn thể hiện rõ là một nhà lãnh đạo kiệt xuất, một nhà lý luận xuất sắc, có tầm cỡ chiến lược của cách mạng Việt Nam; đã có những đóng góp to lớn vào sự lãnh đạo của Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trưởng thành trong thực tiễn cách mạng, đồng chí cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương hoạch định đường lối chiến lược, phương pháp cách mạng của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong việc tìm tòi con đường đưa nước ta từ một nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Giản dị, khiêm tốn, giàu lòng nhân ái, hết lòng vì Đảng, vì dân, đồng chí Lê Duẩn gắn liền với quá trình cách mạng nước ta từ những năm 20 đến những năm 80 của thế kỷ XX.
7. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh
Quê quán: Xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh được biết đến là người khởi xướng công cuộc đổi mới. Vào những năm 80 của thế kỷ 20, trên cương vị Bí thư Thành ủy Hồ Chí Minh, với tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, đồng chí Nguyễn Văn Linh là người đã “bật đèn xanh” cho Thành phố Hồ Chí Minh “xé rào” đổi mới với quyết định được xem là táo bạo lúc bấy giời, đó là xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, thí điểm đổi mới quản lý kinh tế ở một số doanh nghiệp nhà nước. Trong nhiệm kỳ làm Tổng Bí thư từ năm 1986 – 1991, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã góp phần có ý nghĩa quyết định làm xoay chuyển tình thế, mở đường cho sự nghiệp đổi mới đất nước tiến lên bằng những ý tưởng mới, quan niệm mới, cách làm mới- mở ra bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử cho cách mạng Việt Nam.
Được xem là người khởi xướng công cuộc đổi mới của đất nước, nhưng Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh luôn khẳng định chính nhân dân là chủ thể, là những “kiến trúc sư” giúp Đảng có sự đột phá về tư duy đổi mới từ Đại hội VI của Đảng.
8. Tổng Bí thư Đỗ Mười (1917 – 2018)
Quê quán: Xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Đồng chí Đỗ Mười đã từng kinh qua nhiều cương vị công tác, được tôi luyện, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến cứu nước và các giai đoạn xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ Tổ quốc, có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc ta.
Đồng chí Đỗ Mười luôn là một chiến sĩ cách mạng kiên trung, một người chỉ huy mưu lược, quyết đoán, một nhà lãnh đạo tài năng, đức độ với cuộc sống giản dị, chân tình. Cuộc đời sự nghiệp của đồng chí đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trên từng cương vị công tác, nhất là trong công cuộc đổi mới của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Trong những năm giữ cương vị Tổng Bí thư của Đảng (6/1991 – 12/1997), với kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đồng chí Đỗ Mười đã cùng tập thể Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đoàn kết, thống nhất, lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai năng động, hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
9. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu(1931
Quê quán: Xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
Ngày 26-12-1997, tại Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, đồng chí Lê Khả Phiêu được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Từ người lính trực tiếp cầm súng đánh giặc, qua năm tháng rèn luyện, đồng chí trở thành người cán bộ chính trị quân sự dày dạn kinh nghiệm tổ chức, chỉ huy chiến đấu; cùng tập thể Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện.
Trên cương vị là Tổng Bí thư, đồng chí cùng tập thể Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đạt được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Là cán bộ trưởng thành từ cơ sở, nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu có tác phong gần gũi quần chúng, tôn trọng và lắng nghe cấp dưới, phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động lãnh đạo, tận tình giúp đỡ, truyền đạt kinh nghiệm cho người đi sau.
10. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (1940)
Quê quán: Xã Cường Lợi, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn.
Đồng chí Nông Đức Mạnh xuất thân trong gia đình nông dân dân tộc Tày, bản thân là công nhân lâm nghiệp. Đồng chí tham gia cách mạng năm 1958 và được kết nạp vào Đảng năm 1963.
Nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh là người trưởng thành từ cơ sở và giữ nhiều chức vụ chủ chốt ở Trung ương và địa phương. Tại Đại hội IX của Đảng (tháng 04-2001), đồng chí Nông Đức Mạnh được Trung ương bầu làm Tổng Bí thư. Năm 2006, tại Đại hội X của Đảng, đồng chí Nông Đức Mạnh tiếp tục được bầu giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng và công tác của mình, nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
11.Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng(1944)
Quê quán: Xã Đông Hội, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã trải qua nhiều cương vị công tác khác nhau và giữ nhiều trọng trách quan trọng ở địa phương và Trung ương.
Tại Đại hội lần thứ XI, đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày 19 tháng 1 năm 2011. Tiếp đó, tại Kỳ họp thứ 6 QH khoá 14, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch nước.
Cùng với công cuộc phát triển kinh tế – xã hội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cực kỳ quyết liệt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, góp phần củng cố và lấy lại lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định quyết tâm chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước đó là: “Không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”; “Chúng ta không chùn lại, thậm chí phải làm quyết liệt hơn”; kiên quyết loại khỏi bộ máy của Đảng và Nhà nước những cán bộ hư hỏng, tham nhũng. “Thật đau xót, nhưng không thể không làm, không có cách nào khác! Tất cả là vì sự nghiệp chung của Đảng, của đất nước, của nhân dân”; “Đau xót nhưng vẫn phải làm, xử một người để cứu muôn người”, “Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy”… Với quyết tâm chính trị cao của cá nhân Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị, Ban Bí thư nói chung, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được những kết quả vô cùng quan trọng và “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ như ngày nay”./.
Hà Đức – Đức Hải – R’Piên