Nghiên cứu khoa học – công nghệ hiện đang rất được chú trọng và được xác định là nhiệm vụ then chốt trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với Gia Lai, nhiệm vụ này được triển khai như thế nào, cơ chế chính sách hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu khoa học ra sao và môi trường giúp những người đam mê nghiên cứu khoa học có thể hiện thực hoá ý tưởng của mình để đóng góp vào sự phát triển của địa phương đã thực sự được quan tâm hay chưa? Đây là những vấn đề được rất nhiều người dân đặt câu hỏi cho vị khách mời đăng đàn chương trình Dân hỏi – Cơ quan Nhà nước trả lời của Đài PT – TH Gia Lai là Bà Dương Thị Ngà – Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Gia Lai.
Một khán giả ở Pleiku đặt câu hỏi: “Không ít công trình, đề tài nghiên cứu khoa học được nghiệm thu xong chỉ để…xếp vào ngăn kéo. Bà có ý kiến gì về vấn đề này? Ở Gia Lai, có tình trạng này không? Nguyên nhân là do đâu? Đề tài không khả thi, không có kinh phí, hay vì lý do gì khác?” Xin mời bà giải đáp.
Bà Dương Thị Ngà trả lời:
Theo tôi về vấn đề này, có 2 trường hợp như sau:
Thứ nhất là các đề tài, dự án bị hiểu lầm là xếp vào ngăn kéo, đó là: Các đề tài thuộc lĩnh vực khoa học – xã hội nặng về nghiên cứu chủ yếu là bảo tồn, lưu trữ các giá trị văn hóa truyền thống, các giá trị lịch sử phục vụ cho việc nghiên cứu, tham khảo, tra cứu của các đơn vị trên địa bàn tỉnh. Vì vậy phải qua một thời gian mới có thể thấy được hiệu quả của các nghiên cứu đó. Ngoài ra, một số đề tài thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật được thực hiện nhằm phục vụ công tác quy hoạch, quản lý của Nhà nước vì vậy các kết quả nghiên cứu là luận cứ, là cơ sở thực tiễn để các cơ quan chức năng ban ngành xây dựng quy hoạch
định hướng để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.
Thứ hai, có một số đề tài, dự án thực sự bị xếp vào ngăn kéo và nằm im ở đó. Trong thực tế, các đề tài này không phát huy hoặc phát huy yếu. Đây là một thực tế không chỉ tồn tại ở Gia Lai mà còn diễn ra ở nhiều địa phương khác trong cả nước. Đối với trường hợp thứ hai này, có nhiều nguyên nhân tổng hợp dẫn đến tình trạng trên, tôi chỉ xin nêu ra một số nguyên nhân cơ bản sau:
– Trước đây, chúng ta chưa có quy định, chế tài cụ thể để phát huy, nhân rộng đề tài, dự án vào thực tiễn. Hiện đã có luật Khoa học Công nghệ năm 2013 và các văn bản dưới Luật quy định cụ thể trách nhiệm ứng dụng, nhân rộng đề tài, dự án vài thực tiễn, trong đó tỉnh Gia Lai cũng đã quy định: Đối với nhiệm vụ Khoa học – Công nghệ sử dụng Ngân sách Nhà nước, các cấp, ngành, địa phương trong tỉnh có trách nhiệm tiếp nhận, tổ chức ứng dụng, bố trí kinh phí, đánh giá hiệu quả ứng dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ Khoa học – Công nghệ do mình đề xuất đặt hàng hoặc đặt hàng sau khi được đánh giá, nghiệm thu và định kỳ hằng năm gửi báo cáo kết quả ứng dụng về cho Sở Khoa học và Công nghệ.
– Chúng ta chưa chủ động đầu tư kinh phí hỗ trợ để duy trì và nhân rộng đề tài – Dự án vào thực tiễn.
– Công tác xác định chọn lựa nhiệm vụ đôi khi chưa bám sát yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn nên khi đề tài, dự án kết thúc không được đón nhận áp dụng trong thực tế
Xin hỏi bà tỷ lệ của những đề tài buộc phải xếp vào ngăn kéo như bà vừa trình bày ở Gia Lai có nhiều không?
Bà Dương Thị Ngà trả lời:
Chưa có thống kê về lượng mà chỉ có thống kê định tính mà thôi.
Một lần nữa xin cảm ơn bà Dương Thị Ngà– Phó Giám đốc Sở Khoa học – Công nghệ tỉnh Gia Lai!
Hòa Giang ( BT)