Những năm gần đây, nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết có xu hướng gia tăng, nhất là tại các tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, thậm chí cả khu vực đô thị. Tảo hôn không chỉ vi phạm pháp luật mà còn gây ra hậu quả rất lớn đối với cá nhân, gia đình và xã hội; làm giảm chất lượng dân số, trực tiếp ảnh hưởng đến việc chăm sóc, giáo dục trẻ em. Mặt khác, tảo hôn ảnh hưởng trực tiếp đến thể chất, tâm sinh lý, sức khỏe sinh sản của người phụ nữ, nhất là trẻ em gái chưa đến tuổi trưởng thành. Chính vì vậy, thời gian qua, các cấp, ngành, địa phương trên địa bàn tỉnh đã và đang triển khai nhiều giải pháp nhằm đẩy lùi nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống đang có xu hướng gia tăng.
Sinh năm 2003, em Rmah Phưn ở làng Hrang, xã Ia Kriêng, huyện Đức Cơ nghỉ học lấy chồng năm 2014. Lúc đó, em mới 11 tuổi. Đến nay, vợ chồng em đã có được 01 cháu gái 2 tuổi. Khi được hỏi về nguyên nhân nghỉ học giữa chừng, Phưn hồn nhiên trả lời: Vì thích lấy chồng nên đã tự ý nghỉ học, cho dù gia đình có phản đối.
Em Rmah Phưn, cho biết: “Em lấy chồng năm 11 tuổi. Lúc quyết định lấy chồng, mặc dù bố mẹ không đồng chí, nhưng bọn em vẫn quyết định sẽ tổ chức đám cưới”.
Được biết, ở làng Hrang, không riêng gì trường hợp em Phưn nghỉ học “ bắt chồng” sớm, mà trong làng, đa phần các em gái đều lấy chồng ở độ tuổi từ 13 – 16. Lấy chồng sớm, nhà nghèo lại đông con, cuộc sống của những đối tượng này gặp rất nhiều khó khăn. Con cái không được học hành đầy đủ.
Chị Rlan Bim, Chi hội phụ nữ làng Hrang, xã Ia Kriêng, huyện Đức Cơ nói: Có một thực tế là trong làng hiện rất nhiều người kết hôn không đúng độ tuổi. Chi hội cũng tổ chức tuyên truyền,nhưng chị em trong làng ít tham gia các cuộc họp. Đặc biệt, khi các đối tượng có ý định đi đến hôn nhân, nếu bị gia đình can ngăn, họ dọa sẽ tự tử, nên gia đình cũng không có cách nào khác…
Anh Lê Văn Thịnh, Chủ tịch UBND xã Ia Kriêng, huyện Đức Cơ cũng cho biết: “Hiện tại, các tổ chức đoàn thể ở địa phương cũng đã phối hợp tổ chức các buổi hội nghị, tuyên truyền đến nhân dân nhằm đẩy lùi nạn tảo hôn trên địa bàn. Tuy nhiên, do trình độ nhận thức của người dân còn hạn chế nên cũng gặp rất nhiều khó khăn, dẫn đến công tác tuyên truyền kém hiệu quả”.
Có một thực tế là tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống lâu nay vẫn diễn ra khá phổ biến ở các vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Hậu quả của việc kết hôn sớm sẽ có những tác động lâu dài và vô cùng nghiêm trọng. Cụ thể là chất lượng của nguồn dân số tương lai bị đe dọa khi những đứa trẻ không được nuôi dưỡng tốt, sinh ra với tỷ lệ suy dinh dưỡng cao.
Do đó, các địa phương cần tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến những quy định của pháp luật có liên quan đến hôn nhân gia đình, tảo hôn và hôn nhân cận huyết cũng như làm rõ những hậu quả, tác hại và hệ lụy do vấn nạn này gây ra. Qua đó, nhằm nâng cao nhận thức, dần thay đổi được hành vi, từng bước hạn chế và tiến tới chấm dứt hoàn toàn tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số như hiện nay./.
Bích Thủy, Xuân Huy