Với gần 700 ha rau, củ, quả các loại được gieo trồng phân tán trong dân, so với một số địa phương khác trong tỉnh, những năm qua huyện Kbang cũng được xem là nơi có diện tích rau màu tương đối lớn. Cùng với đó công tác bảo vệ thực vật cũng cần được ngành chức năng và chính quyền địa phương coi trọng.

Vườn rau của gia đình bà Lê Thị Cúc, thôn 6,xã Đông.
Gia đình bà Lê Thị Cúc ở thôn 6 – xã Đông huyện Kbang hiện có gần 5 sào rau các loại, mặc dù nguồn thu không lớn nhưng nhiều năm qua vườn rau này được xem là một trong những nguồn thu chủ yếu để đảm bảo nhu cầu sinh hoạt và chăm lo chuyện học hành của con cái.
Theo bà Cúc, để có được nguồn thu nhập đáng kể từ vườn rau này thì bên cạnh việc tìm hiểu nhu cầu thị trường tại chỗ theo kiểu “mùa nào- thứ ấy” còn phải đặc biệt quan tâm đến yêu cầu bảo vệ thực vật đảm bảo nguồn rau an toàn cho người sử dụng.
Được sự hỗ trợ đắc lực của người chồng là chi hội trưởng hội nông dân thôn 6, sau mỗi lần tham dự các buổi tập huấn, hội thảo về phương pháp mới, về quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc, bảo vệ rau an toàn do trạm bảo vệ thực vật địa phương và Tỉnh tổ chức, việc áp dụng cho gia đình và bà con lối xóm được triển khai ngay và có hiệu quả rõ rệt.
Bà Lê Thị Cúc – Thôn 6 xã Đông huyện Kbang chia sẻ: Gia đình tôi chuyển từ An khê vào đây làm nghề trồng rau đã 20 năm rồi. Để duy trì và phát triển nghề trồng rau thì phải đảm bảo sản xuất theo nhu cầu thị trường, mùa nào thứ ấy. Rau không sạch người ta không mua đâu, nhà tôi làm rau siêu sạch, có lưới che, diệt trừ bướm nên không có sâu, không phải phun thuốc sâu. Phải làm rau sạch thì người ta mới mua, mới giữ được mối lâu dài…
Còn tại cánh đồng bí đỏ và rau củ quả các loại hàng chục ha bên khu vực cầu treo cũng thuộc địa bàn xã Đông huyện Kbang. Kẻ buồn, người vui khi một bên là ruộng bí tốt tươi, nhiều ngọn, sai quả, một bên là ruộng bí vàng úa có nguy cơ lỗ vốn bởi cách làm tự phát của một số hộ dân áp dụng chưa đúng quy trình kỹ thuật và lịch nông vụ.
Trò chuyện với chúng tôi ông Trần Anh Đức – Thôn 7 xã Đông huyện Kbang nói: Nói chung người dân ở đây trồng bí vào tháng 8 đúng dịp nắng hạn, sau khi ra trái được 4-5 kg thì lại gặp mưa dầm nên bị thối, giờ chỉ trông vào đợt thu bí non, bí rài may ra chỉ được 1 tấn trên 1 ha. Nói chung là không có cách gì chữa được cả …
Với đặc thù địa bàn rộng, phân tán, nơi ở, nơi sản xuất của người dân không tập trung, lực lượng cán bộ mỏng, những năm qua công tác bảo vệ thực vật ở huyện Kbang cũng gặp nhiều khó khăn mặc dù vẫn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ, phối hợp của chính quyền địa phương và ngành nông nghiệp huyện.
Bà Trần Thị Mai – Trạm trưởng trạm BVTV huyện Kbang cho biết: Đối với huyện Kbang do địa bàn rộng, phân tán, công tác BVTV gặp nhiều khó khăn, nhưng được sự hỗ trợ của lãnh đạo huyện, tỉnh chúng tôi đã thường xuyên xuống cơ sở, kiểm tra, tuyên truyền vận động, khuyến cáo người dân thực hiện tốt công tác BVTV. Ngoài kế hoạch thường xuyên, kinh phí hạn hẹp nhưng chúng tôi vẫn phối hợp với chính quyền các xã, thị trấn mở được 17 lớp tập huấn chuyên đề về BVTV cho người dân đạt hiệu quả, được cấp trên đánh giá cao, ngoài ra trong năm 2014 chúng tôi cũng sáp dụng được một mô hình rau bắp sú an toàn. Tuy nhiên do nguồn kinh phí hạn hẹp nrrn việc nhân rộng mô hình này chưa thực hiện được.
Thực tế đã chứng minh: chuyện sản phẩm nông nghiệp kém chất lượng không bán được do quá nhiều dư lượng thuốc bảo vệ thực vật hay bài học nhãn tiền về chuyện: được mùa- mất giá, được giá – mất mùa ở khắp các địa phương trong nước và trong tỉnh vẫn đang còn hiện hữu, thì bên cạnh yếu tố khách quan bởi thị trường biến động còn có nguyên nhân không nhỏ do yếu tố chủ quan của người trồng.
Chỉ khi nào ý thức chủ quan của người dân được nâng lên, trách nhiệm cùng phối hợp, cùng vào cuộc của các ngành chức năng và chính quyền địa phương được nâng cao, khi đó nền sản xuất nông nghiệp và quyền lợi của người nông dân mới thực sự bền vững./.
Gia Cư-X. Huy