Trong thời gian qua, việc dạy học theo mô hình lớp ghép đã góp phần giải quyết tình trạng thiếu giáo viên, thiếu trường, lớp và góp phần giải quyết công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ. Ngoài ra, mô hình này được đánh giá là mô hình dạy học mang tính nhân văn cao bởi hầu hết các lớp ghép được hình thành dựa vào hoàn cảnh thực tế, đối tượng, trình độ, hoàn cảnh của từng học sinh. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế thì chất lượng của các lớp ghép chưa thật sự hiệu quả nếu như số lượng học sinh quá đông so với quy định, cơ sở vật chất không đảm bảo.

Năm học này, Trường PTDTBT Tiểu học và THCS Nguyễn Khuyến, xã Chư Krêy, huyện Kông Chro có đến 9 lớp ghép 2 trình độ và 2 lớp ghép 3 trình độ. Mặc dù theo quy định sĩ số của lớp ghép không quá 15 em /lớp và được bố trí 2 chiếc bảng ở đầu và cuối lớp, học sinh quay theo hai hướng khác nhau, còn giáo viên đi lại như con thoi khi lên lớp. Thế nhưng lớp ghép 1 +2 của cô giáo Lê Thị Hoa lại có đến 26 học sinh và chỉ có 1 chiếc bảng duy nhất, nghĩa là học sinh 2 trình độ đều nhìn về một hướng nên giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình giảng dạy.
Cô giáo Lê Thị Hoa, GVCN lớp ghép 1+2, Trường PTDTBT Tiểu học và THCS Nguyễn Khuyến, huyện Kông Chro cho biết: “Khó khăn trước hết là về cơ sở vật chất của nhà trường nói chung thiếu bàn ghế, bảng cho nên lớp ghép hiện tại tôi đang chủ nhiệm thiếu bảng nên cả lớp nhìn một bảng cũng khó, học sinh mất tập trung. Thứ hai nữa là chương trình lớp 1 mới trường đây học sinh đa số là đồng bào DTTS nên là các em tiếp thu kiến thức hơi chậm mà chương trình hơi nặng cho nên là dạy cũng khó”.
Dạy học sinh lớp ghép 2 trình độ đã khó, dạy học sinh lớp ghép 3 trình độ còn khó gấp nhiều lần. Trong khi số học sinh lại nhiều gần gấp 3 so với quy định, cộng với 100% học sinh là học sinh DTTS, ý thức học tập chưa cao, lại thường xuyên nghỉ học đó là những khó khăn lớn nhất mà những giáo viên trực tiếp dạy lớp ghép ở vùng khó khăn của huyện Kông Chro đang gặp phải.
Cô giáo Lê Thị Hương Giang, GV điểm trường làng Hrách Gió, Trường PTDTBT Tiểu học và THCS Nguyễn Khuyến, Kông Chro cho biết: “Về khó khăn ở đây sĩ số 3 lớp đông hơn các lớp khác, học sinh 100% là người DTTS các em học rất là chậm so với nơi khác và ý thức của các em đi học cũng không cao như vùng thuận lợi. Thường ngày đi học cô giáo phải kêu từng em đi học. Dạy 3 lớp xoay chuyển bài cũng khó hơn khi mình dạy một lớp đơn. Khi mình chuyển môn này sang môn khác thì lớp kia sẽ ồn và mình khó có thể tập trung được cả lớp”.
Năm học này, huyện Kông Chro có tổng số 13.153 học sinh cấp Tiểu học và THCS. Hiện tại địa phương có 97 lớp ghép, trong đó có 92 lớp ghép 2 trình độ và 6 lớp ghép 3 trình độ. Riêng Trường PTDTBT Tiểu học và THCS Nguyễn Khuyến năm học 2020 – 2021 còn thiếu tới 6 giáo viên cấp Tiểu học và 4 giáo viên cấp THCS.
Thầy giáo Nguyễn Trọng Tâm, PHT Trường PTDTBT Tiểu học và THCS Nguyễn Khuyến, Kông Chro cũng nói: “Nhìn chung lớp của nhà trường có 50% là lớp ghép. Hiện tại lớp ghép của nhà trường có sĩ số học sinh quá đông so với quy định, có một lớp ghép 3 trình độ có tới 29 em học sinh. Nhà trường xin tách nhưng do liên quan đến kinh phí, con người nên khó khăn. Lớp ghép đông dĩ nhiên chất lượng không thể bằng lớp đơn”.
Là một trong những địa phương có nhiều lớp ghép như huyện Kông Chro, năm học 2020 – 2021 huyện Mang Yang có 12/16 Trường Tiểu học thực hiện mô hình lớp ghép. Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, nhiều trường đã từng bước vận động phụ huynh đưa con đến các điểm trường chính để được học lớp đơn, đảm bảo quyền lợi cho các em.
Cô giáo Nguyễn Thị Oanh, Hiệu trưởng Trường Tiểu học ĐăkDJăng, huyện Mang Yang trao đổi: “Năm học 2019 – 2020 nhà trường đã chuyển một số em học sinh lớn có điều kiện ra phân hiệu trung tâm học rồi . Năm học 2020 – 2021 nhà trường đã xóa bỏ được 1 điểm làng nên các cháu đã ra hết trung tâm học. Năm nay thì bắt đầu lại tiếp tục họp phụ huynh đầu năm tuyên truyền cho phụ huynh năm học tới đưa con ra điểm trường chính học để xóa bớt các lớp ghép ở trong các điểm trường lẻ đi, tuyên truyền và làm công tác tư tưởng phụ huynh từ năm học này”.
Thực hiện Dự án nghiên cứu về dạy học lớp ghép giữa Chính phủ Việt Nam và UNICEF, Gia Lai là một trong 4 tỉnh đầu tiên trong cả nước tham gia dự án này và được đánh giá là có kinh nghiệm đối với hình thức dạy lớp ghép. Đây là kết quả đáng khích lệ sau gần 20. Tuy nhiên để nâng cao được chất lượng của lớp ghép, chúng ta không thể dựa hoàn toàn vào nguồn tài trợ của các dự án mà phải có chủ trương, chính sách lâu dài, đồng bộ. Trước mắt, cần đầu tư xây dựng mới và sửa chữa cơ sở vật chất trường lớp đạt yêu cầu, bổ sung kinh phí để trang bị đồ dùng dạy học, bồi dưỡng giáo viên nhằm cải thiện chất lượng dạy học lớp ghép ở những vùng không thuận lợi trên địa bàn tỉnh Gia Lai./.
Lệ Xuân; Minh Trí