Con người xuất hiện ở đâu, khi nào thì lịch sử vùng đất đó được bắt đầu từ thời điểm ấy – Đó là câu nhận định vừa mang tính chất lịch sử, đồng thời dựa trên những cứ liệu khoa học. Vậy bằng phương pháp nghiên cứu nào, các nhà khoa học đã chứng minh: Các chế phẩm đồ đá tìm thấy trong các di tích ở An Khê giống với các di tích giai đoạn sơ kỳ Đá cũ, tương đương với giai đoạn tồn tại của Người đứng thẳng (Homo erectus) trên thế giới, thuộc giai đoạn bình minh của lịch sử nhân loại và kỹ nghệ đá cũ An Khê có gì độc đáo? Đây là nội dung được chúng tôi đề cập trong kỳ 2 của series phóng sự về Kỹ nghệ Đá cũ An Khê.
Tại những điểm đã được khai quật, các nhà khảo cổ học Việt – Nga đã phát hiện những di tích có địa tầng nguyên vẹn (in situ), thu được hàng nghìn hiện vật đá, hàng trăm mẫu thiên thạch (tectits), có niên đại địa chất trung kỳ Cánh tân (Pleistocene) và niên đại đồng vị phóng xạ bằng phương pháp Kalium Argon là 806.000±22.000 năm và 782.000±20.000 năm cách ngày nay… Dựa trên những cứ liệu thu thập và tiến hành phân tích: Các nhà khoa học đã xác nhận kỹ nghệ An Khê khác và cổ hơn các di tích sơ kỳ Đá cũ hiện biết ở Việt Nam, như Núi Đọ (Thanh Hóa), niên đại khoảng 400.000 năm và Xuân Lộc (Đồng Nai), niên đại khoảng 500.000 năm, tương đương với kỹ nghệ Bách Sắc, Quảng Tây, Trung Quốc, nơi đã phát hiện kỹ nghệ Đá cũ gần tương tự kỹ nghệ An Khê với tuổi tuyệt đối 803.000 năm…
PGS.TS. Nguyễn Khắc Sử, Viện Khảo cổ học Việt Nam cho biết: “Trước đây, chúng ta chỉ biết được lịch sử Việt Nam với phát hiện ở Núi Đọ khoảng nửa triệu năm, thì nay chúng ta đã đẩy được tuổi của con người xuất hiện ở Việt Nam sớm hơn nữa. Đây chưa phải sớm nhất của nhân loại nhưng chúng ta phải công nhận ở Việt Nam con người xuất hiện ở đây, ở An Khê này”.
Viện sỹ, GS.TS Anatoly Panteleevich Derevianko, Viện trưởng Viện Khảo cổ học và Dân tộc học Novosibirsk nhận xét: “Việt Nam là một trong những vùng tìm thấy những người Homo erectus, tức là Người vượn đứng thẳng, như vậy chúng ta sẽ có cơ sở để xác định rằng họ di cư từ Châu Phi sang đây. Những phát hiện khảo cổ ở An Khê, Việt Nam là rất quan trọng trong vấn đề nghiên cứu loài người”.
Những công cụ, hiện vật khai quật được tại các điểm di tích là nguồn tư liệu quan trọng để các nhà khoa học xác nhận: Ở thung lũng An Khê tồn tại các loại hình gia công, chế tác công cụ từ khá sớm. Ở Rộc Tưng 1, có thể người nguyên thủy đã biết cải tạo ít nhiều mặt bằng nơi dựng lều trại, sử dụng đá tự nhiên tôn nền, chống lầy lội vào mùa mưa. Trong khi đó, nơi chế tác công cụ thường tập hợp khối lượng lớn cuội nguyên liệu…
Về kỹ nghệ: Người cổ An Khê chế tác, sử dụng những công cụ cuội đá quartz và quartzite rất cứng, có kích thước lớn; kỹ thuật ghè đẽo trực tiếp, có thể ghè trên tay hoặc trên đe. Họ đã tạo ra tổ hợp công cụ tiêu biểu gồm những mũi nhọn hình khối tam diện, công cụ ghè một mặt (uniface), ghè hai mặt (biface), công cụ chặt thô dạng chopper, chopping; những công cụ nạo, cắt làm từ mảnh tước, cuội bổ và công cụ dạng hạch cuội bất định hình…
PGS.TS. Nguyễn Khắc Sử, Viện Khảo cổ học Việt Nam cho biết thêm: “Kỹ nghệ An Khê chúng ta phát hiện, trước hết nó mang yếu tố riêng của Việt Nam, đó là sự tồn tại của công cụ tam diện có 3 mặt, và ở đây con người cổ đã tận dụng các mặt cắt để xẻ thịt động vật lớn. Đây là nét riêng biệt của kỹ nghệ An Khê”.
Những phát hiện phức hợp công cụ ghè hai mặt và rìu tay ở An Khê đã bác bỏ quan điểm sai trái của H. Movius về việc phân chia lịch sư nhân loại thành 2 vùng Đông – Tây đối lập nhau, từ đó đánh giá thấp những đóng góp của cư dân châu Á cho lịch sử nhân loại. Với phát hiện này, chúng ta đã bổ sung thung lũng An Khê, Gia Lai, Việt Nam vào bản đồ xuất hiện và tiến hóa của loài người trên thế giới.
Cuộc khai quật các di tích Đá cũ ở An Khê mặc dù với quy mô chưa lớn, nhưng đã thu được những kết quả rất có ý nghĩa và mở ra những triển vọng mới cho địa phương… sẽ là nội dung được chúng tôi đề cập trong kỳ cuối của loạt phóng sự này .
Song Nguyễn- Đức Hải – Phan Nguyên