"Phương châm này không phải chỉ với Trung Quốc mà với các nước trên thế giới để có hữu nghị, tin cậy lẫn nhau, cùng có lợi…"
Sau khi 4 thành viên Chính phủ kết thúc phần trả lời chất vấn trước Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có phát biểu và làm rõ thêm một số vấn đề đại biểu quan tâm.
Phát biểu mở đầu phiên chất vấn chiều 19/11, Thủ tướng cho biết, tại kỳ họp này nhận được 149 phiếu chất vấn của Đại biểu Quốc hội gửi đến các thành viên Chính phủ, trong đó có 17 phiếu gửi đến Thủ tướng. Thủ tướng đã giao các nội dung chất vấn tới các thành viên Chính phủ để trả lời các vị đại biểu.

Hơn 2 ngày đã có 4 Bộ trưởng trả lời trực tiếp chất vấn tại Hội trường.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng báo cáo một số vấn đề mà cử tri cả nước quan tâm về tình hình kinh tế-xã hội: tình hình xuất khẩu, nhập khẩu, giải ngân ODA, thu ngân sách Nhà nước, chi ngân sách Nhà nước…
Về nợ công, Thủ tướng khẳng định, mức nợ công nằm trong ngưỡng cho phép của Quốc hội.
Thời gian tới, giải pháp được Chính phủ đưa ra là quản lý chặt chẽ nợ công đặc biệt khoản vay mới. Phấn đấu đến năm 2020 nợ công giảm còn 60,2% GDP, nợ Chính phủ 46,6%. Kiểm soát chặt nợ đầu tư xây dựng cơ bản, nợ vay của quỹ bảo hiểm xã hội, cấp bù chênh lệch lãi suất, nợ của DNNN, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia.
Thủ tướng khẳng định: "Đã trả nợ đầy đủ, đúng hạn, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước năm 2014 khoảng 14,2% (theo quy định là không quá 25%)".
Ngoài ra, trong điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định hơn, chúng ta còn sử dụng một phần vay mới với kỳ hạn dài hơn, lãi suất thấp hơn để đảo nợ, góp phần làm giảm áp lực trả nợ trong ngắn hạn và giảm chi phí vay vốn. Việc đảo nợ này không làm tăng tổng số nợ công và phù hợp với Luật Quản lý nợ công cũng như thông lệ quốc tế.
Theo người đứng đầu Chính phủ, thực trạng gây lo lắng, bức xúc trong xã hội là nợ công đã tăng sát trần cho phép, áp lực trả nợ lớn trong ngắn hạn. Một số dự án đầu tư kém hiệu quả, tình trạng tham nhũng, lãng phí trong đầu tư xây dựng vẫn còn, có vụ việc nghiêm trọng. Cơ cấu ngân sách chưa lành mạnh; tỷ trọng thu ngân sách/GDP giảm; chi thường xuyên tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn…
Thời gian tới, theo Thủ tướng, nợ công chỉ đầu tư cho xây dựng phát triển, các công trình quan trọng thiết yếu theo qui hoạch. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay, chất lượng công trình. Khẩn trương cơ cấu lại nợ công, giảm áp lực các khoản vay ngắn hạn… Chính phủ sẽ quản lý chặt chẽ nợ công đặc biệt khoản vay mới. Phấn đấu đến năm 2020 nợ công giảm còn 60,2% GDP, nợ Chính phủ 46,6%. Kiểm soát chặt nợ đầu tư xây dựng cơ bản, nợ vay của quỹ bảo hiểm xã hội, cấp bù chênh lệch lãi suất, nợ của DNNN, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia.
Nợ công chỉ đầu tư cho xây dựng phát triển, các công trình quan trọng thiết yếu theo qui hoạch. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay, chất lượng công trình. Khẩn trương cơ cấu lại nợ công, giảm áp lực các khoản vay ngắn hạn…
Chính phủ sẽ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước tăng cường quản lý việc vay ngắn hạn của các tổ chức tín dụng để từ năm 2015 bảo đảm tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ này trong giới hạn quy định (dưới 25% tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa dịch vụ hàng năm).
Thủ tướng đã chỉ đạo 4 nội dung cần liên kết, hợp tác vùng
Chất vấn Thủ tướng, ĐBQH Nguyễn Thị Kim Bé đặt câu hỏi: Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 429/2009 phê duyệt đề án quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL, tuy nhiên hiện nay từng vùng phát triển theo hướng quy mô nội bộ. Từ đó gây khó khăn cho kết nối sản xuất và tiêu thụ trong khu vực. Xin Thủ tướng cho biết giải pháp phát triển kinh tế vùng ĐBSCL trên cơ sở liên kết vùng, đầu tư trọng điểm, tạo bước đột phá mạnh mẽ hơn, phát huy đúng tiềm năng thế mạnh của vùng kinh tế trọng điểm này, góp phần đóng góp chung cho sự phát triển kinh tế đất nước.
Trả lời câu hỏi này, Thủ tướng khẳng định, trong một không gian, khu vực, vùng mà có điều kiện kinh tế xã hội tương đồng thì yêu cầu liên kết, hợp tác để phát triển là cần thiết, gần như là khách quan, tất yếu để phát triển hiệu quả, bền vững. Chính phủ nhận thức rõ sự cần thiết. Liên kết phát huy tiềm năng lợi thế vùng, sử dụng hiệu quả, khắc phục đầu tư trùng dẫm, lãng phí; ứng phó, đối phó, khắc phục khó khăn, thách thức mà riêng một địa phương xử lý khó.
Với tinh thần đó, Thủ tướng giao Bộ KH-ĐT xây dựng qui chế liên kết các vùng kinh tế của cả nước. Qui chế dừng ở thí điểm, trong đó có vùng ĐBSCL. Tôi chỉ đạo 4 nội dung cần liên kết, hợp tác.
Một là: Các tỉnh phải liên kết, hợp tác để đầu tư hiệu quả các dự án, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trên cơ sở qui hoạch chung chính phủ phê duyệt, trước hết là đầu tư (giao thông, thủy lợi, viễn thông, điện… các cơ sở sản xuất). Nhưng việc này rất khó. Ngay như tôi muốn các đồng chí hợp tác xây dựng nhà máy rác nhưng rất khó, tỉnh nào cũng muốn làm. Rác của tỉnh này không muốn cho tỉnh khác.
Hai là: ĐBSCL cần liên kết hợp tác để phát huy 3 lợi thế của vùng là lúa gạo lớn nhất cả nước, cá tra – ba sa – tôm và trái cây. Ba sản phẩm này tỉnh nào cũng có. Cái liên kết hình thành chuỗi giá trị từ giống, chế biến, tiêu thụ… để có lợi cho dân.
Ba là: Liên kết hợp tác để sử dụng bền vững và ứng phó hiệu quả, bao gồm nguồn nước sông Cửu Long, ứng phó hiệu quả với lũ. Đây không thể một tỉnh làm được và làm không hiệu quả.
Rồi liên kết hợp tác để khắc phục những khó khăn, thách thức ở vùng đặt ra như: Mặt bằng giáo dục (nhiều chỉ số thấp hơn cả nước). Nơi nào cũng muốn có trường ĐH thì không biết làm sao.
Ứng dụng KHCN vào sản xuất còn hạn chế. Hợp tác để khắc phục hạ tầng yếu kém như tôi nói phần trên.
Hợp tác để bảo đảm quốc phòng, an ninh trong vùng.
Sự cần thiết hợp tác đã rõ, nội dung cũng đã rõ, nhưng với thể chế chính trị của chúng ta hiện nay, phương thức lãnh đạo, điều hành quản lý… thì cơ chế chính sách nào để hợp tác thì cũng rất khó khăn. Chúng tôi chỉ đạo, lấy ý kiến, nhưng dự thảo nhiều lần nhưng ban hành khó khả thi. Cho nên tôi thấy thực sự lúng túng. Hợp tác là cần thiết nhưng cơ chế, tổ chức như thế nào để thực hiện được điều này thì cần phải thảo luận thêm.
Chính sách đặc thù giảm nghèo cho đồng bào dân tộc: Ngân sách ở đâu?
ĐBQH Danh Út: Đồng bào các dân tộc đánh giá cao và hoan nghênh chính phủ đã thực hiện tốt chính sách dân tộc như Hiến pháp đã quy định, tuy nhiên chính sách chưa đồng bộ, còn nhiều khó khăn. Xin hỏi Thủ tướng, hiện nay trong đồng bào dân tộc thiểu số có hơn 300.000 hộ không và thiếu đất sản xuất, thiếu đất ở. Nhưng đất đai của các nông lâm trường quản lý khá nhiều, có tình trạng sử dụng kém hiệu quả và chưa sử dụng. Xin đề nghị Chính phủ giảm bớt đất của các nông, lâm trường để giao lại chính quyền địa phương cấp cho đồng bào, giao khoán bảo vệ rừng. Xin ý kiến Thủ tướng về chủ trương và giải pháp?.
Đại biểu Danh Út. Ảnh: Quang Trung/VOV.VN
Thủ tướng: Cả nước ta còn 300.000 hộ đồng bào thiểu số không có đất sản xuất – là điều trăn trở, day dứt của Chính phủ. Tôi hết sức cố gắng tìm cách giải quyết vấn đề này, dù đã giải quyết rất nhiều rồi.
Việc giải quyết vấn đề này cần nhiều biện pháp. Trước hết, đồng bào thường sống gắn bó với rừng. Chúng tôi trình bày trong báo cáo là yêu cầu xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn với đồng bào dân tộc thiểu số. Gắn với rừng thì phải được giao rừng. tôi đã trình bày cụ thể vấn đề này trong báo cáo.
Chính phủ cũng thảo luận dự thảo của Bộ Nông nghiệp về chính sách đặc thù này. Gắn với giao rừng, giữ rừng, giảm nghèo.
Chính phủ sẽ cố gắng thảo luận ban hành sớm. Nhưng vấn đề lớn nhất là ngân sách ở đâu. Cùng với đó là hàng loạt chính sách khác như ngành nghề, các dịch vụ xã hội. Chính phủ đã nhận thấy vấn đề này quan trọng, tập trung giải quyết nhưng cần thực hiện hiệu quả hơn.
Nghiên cứu thành lập Bộ Kinh tế biển
Về kinh tế biển, ĐBQH Đỗ Văn Đương hỏi: Trong năm gần đây, chúng ta có những bước đầu tư đáng kể gì để phát triển kinh tế biển đảo. Để dang tay giữ biển đông ngàn dặm, cần bớt đầu tư công trong bờ, để dành nguồn lực tăng cường đầu tư cho kinh tế biển, nên thành lập Bộ Kinh tế Biển để có một bộ chuyên tâm tham mưu cho Chính phủ quản lý nhà nước về phát triển kinh tế biển.

Thủ tướng: Đối với nước ta, biển quan trọng thế nào ai cũng biết. Chúng ta đã có chính sách, đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, so với yêu cầu, mong muốn thì chưa được, cần phải nỗ lực, làm tốt hơn, trong đó có đầu tư phát triển kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. chính phủ đang tiếp tục làm việc này. Căn cứ vào điều kiện quốc gia, nợ công thì đã có cả một kế hoạch cho bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.
Việc bớt đầu tư trên bộ dành cho biển, cái này khó rạch ròi. Cho nên phải thực hiện đồng bộ, bổ sung cho nhau.
Cần lập Bộ biển – tôi ghi nhận ý kiến này và có nhiều ý kiến như vậy. Nhưng bây giờ lập một Bộ Biển mà tất cả lĩnh vực kinh tế biển, bảo đảm an ninh quốc gia trên biển… thì một bộ khó làm được. Khai thác thủy sản, dầu khí, vận tải biển, du lịch biển… hay chủ quyền quốc gia trên biển không thể giao cho 1 bộ được.
Hiện nay, Bộ TNMT quản lý tài nguyên biển, còn từng lĩnh vực giao từng bộ. CÒn khai thác thủy sản giao cho Bộ NN-PTNT và vẫn còn Tổng cục Thủy sản, giúp Nhà nước về lĩnh vực này. Vận tải biển do Bộ GTVT… Hay khai thác dầu khí trên biển là do Bộ Công Thương. Du lịch trên biển phải giao cho Bộ Văn hóa. Các lĩnh vực trên biển khó chia cắt rạch ròi, giao cho 1 bộ.
Chúng tôi đang chỉ đạo, tổng kết đánh giá chức năng, nhiệm vụ, các lĩnh vực đều có phân công bộ chủ trì quản lý .Chúng tôi ghi nhận, nghiên cứu tiếp cho nhiệm kỳ sau.
Nợ xấu trở về mức 3% vào năm 2015
ĐBQH Thân Đức Nam: Đề nghị Thủ tướng cần làm rõ hơn vấn đề nợ xấu của ngân hàng. Nợ xấu NHTM là hiện tượng bình thường của tín dụng ngân hàng, vì vậy luật pháp quy định tổ chức tín dụng phải trích lập dự phòng rủi ro trước khi chia cổ tức. Tuy nhiên, nợ xấu đã vượt khả năng tự giải quyết của NHTM, đe dọa mất thanh khoản, dễ đổ vỡ hệ thống, làm tắc nghẽn sự hấp thụ vốn của nền kinh tế, làm nền kinh tế trì trệ thì nợ xấu trở thành vấn đề của kinh tế vĩ mô mà ở các nước, Chính phủ phải can thiệp xử lý, không thể kệ cho trách nhiệm của NHTM. Tôi đánh giá cao nỗ lực xử lý nợ của NHNN đã có kết quả, nhưng nếu thiếu sự can thiệp của Chính phủ, đặc biệt là giải pháp và nguồn lực vật chất thì hiệu quả xử lý nợ xấu kém đi, kéo nền kinh tế trì trệ. Đề nghị Thủ tướng cho biết Chính phủ có chủ trương gì để giải quyết vấn đề này?

Thủ tướng: Trong báo cáo của Chính phủ về nợ xấu tôi lo là dài, nhưng cố gắng trình bày cho rõ thực trạng, nguyên nhân, chủ trương, giải pháp vừa qua triển khai thế nào, kết quả ra sao, tới đây làm những gì. Tôi thấy đã rõ. Chỉ có một điều, chúng ta không có ngân sách và không sử dụng ngân sách để làm việc này. Không có thì khó khăn hơn nhưng chúng ta sẽ làm theo cách tôi đã trình bày.
Đến 2015 nợ xấu trở về mức 3%, đó là mức thông thường trong kinh tế thị trường của các TCTD. Như thế phù hợp hơn điều kiện kinh tế nước ta. Quốc hội đã bấm nút ngân sách rồi, không còn tiền cho việc đó nữa.
3 đột phá chiến lược để trở thành nước công nghiệp hiện đại
ĐBQH Trịnh Ngọc Phương: Qua phiên trả lời chất vấn, nổi lên nhiều vấn đề còn hạn chế như hạ tầng giao thông, công nghiệp phụ trợ, nguồn nhân lực, khuyến khích sáng tạo KHCN… Thủ tướng đã đưa ra nhiều giải pháp, theo Thủ tướng giải pháp nào là quan trọng, mang tính quyết định, nhiệm vụ cần tập trung trước mắt từ nay đến hết 2015 là gì để đảm bảo 2020 Việt Nam cơ bản thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa?

Thủ tướng: Phấn đấu nước ta thành nước công nghiệp hiện đại phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, đặc biệt phải thực hiện tốt 3 đột phá chiến lược: thể chế (thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, huy động cao nhất, sử dụng hiệu quả các nguồn lực) – đây là đột phá; con người – vì sao năng lực cạnh tranh của ta thấp – chính do yếu tố con người. Con người phải được đào tạo có trình độ, chất lượng đào tạo cao. Trung ương dành một phiên họp và có nghị quyết về vấn đề này.; xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tần theo hướng đồng bộ, hiện đại.
Để đưa nước ta thành nước công nghiệp hiện đại không còn hướng nào khác là thực hiện hiệu quả 3 đột phá chiến lược.
Phương châm với Trung Quốc là “vừa hợp tác vừa đấu tranh“
Đại biểu Thích Thanh Quyết: Cả dân tộc, hoặc nói ra hoặc không nói ra, mọi người dân Việt Nam đều thấu hiểu, thấm thía cái giá của hòa bình, ổn định. Từ khi Trung Quốc rút Giàn khoan Hải dương 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của nước ta, sự kiên quyết, đồng tâm của toàn Đảng, toàn d&
theo VOV