Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIV trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV

Cập nhật 10/7/2015, 14:07:13

Thực hiện hướng dẫn số 07 của Tỉnh ủy Gia Lai về việc hướng dẫn nhân dân thảo luận, góp ý kiến các dự thảo văn kiện Đại hội XII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội lần thứ XV của Đảng bộ tỉnh. Đài PT – TH Gia Lai xin đăng tải toàn văn Dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIV trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV với tiêu đề “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, giữ vững ổn định chính trị – xã hội để Gia Lai phát triển bền vững”

TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO

VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ, PHÁT HUY SỨC MẠNH

ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN VÀ ĐỒNG BỘ

CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, GIỮ VỮNG ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI ĐỂ GIA LAI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

(Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIV

trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV)

 

 Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XV (nhiệm kỳ 2015 – 2020) diễn ra vào thời điểm rất quan trọng: Đảng bộ, quân và dân các dân tộc trong tỉnh thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu và nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV Đảng bộ tỉnh; nước ta trải qua 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 và 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV; quyết định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho giai đoạn 2015 – 2020.

 

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU

ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XIV (NHIỆM KỲ 2010 – 2015)

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2010 – 2015) bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tỉnh ta gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, diễn biến bất thường; tình hình Biển Đông, vấn đề bảo vệ chủ quyền biên giới và an ninh chính trị tiềm ẩn những yếu tố phức tạp; đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn… Song, dưới sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và của các ban, bộ, ngành Trung ương, Đảng bộ, quân và dân các dân tộc trong tỉnh đã tranh thủ thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng mà Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã đề ra.

 I- NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC

1- Kinh tế tiếp tục phát triển, quy mô nền kinh tế được mở rộng, kết cấu hạ tầng đầu tư tương đối đồng bộ

– Kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch hợp lý

Kinh tế của tỉnh duy trì tốc độ tăng trưởng cao, bình quân hằng năm tăng 12,81%, đạt chỉ tiêu Đại hội XIV([1]). Quy mô nền kinh tế được mở rộng, đến năm 2015, gấp 2,54 lần so với năm 2010, GDP bình quân đầu người đạt 39,1 triệu đồng/năm, bằng 79,7% so với bình quân chung của cả nước([2]).

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch hợp lý với điều kiện thực tiễn của tỉnh([3]), tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành công nghiệp – dịch vụ tăng nhanh hơn ngành nông nghiệp, đến 2015 tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 36,22%, công nghiệp – xây dựng chiếm 33,61% và dịch vụ chiếm 30,17%; so với đầu nhiệm kỳ tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm 5,97%, tỷ trọng công nghiệp – xây dựng tăng 1,6%, tỷ trọng dịch vụ tăng 4,38%.

Nông nghiệp phát triển khá bền vững theo hướng sản xuất hàng hóa. Giá trị sản xuất gấp 1,41 lần so với năm 2010, tăng bình quân 7,2%/năm, vượt chỉ tiêu Đại hội XIV. Đã định hình các vùng chuyên canh tập trung, cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày gắn với các nhà máy chế biến phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng được đẩy mạnh, ứng dụng khoa học, công nghệ, các mô hình mới vào sản xuất được chú trọng nên đã làm tăng năng suất cây trồng, giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm([4]).

Chăn nuôi tiếp tục phát triển. Công tác phòng, chống dịch bệnh được chú trọng. Nhiều trang trại, dự án chăn nuôi quy mô vừa và nhỏ đã phát huy hiệu quả, dự án chăn nuôi bò thịt, bò sữa theo quy mô công nghiệp bước đầu đi vào hoạt động. Tỷ trọng chăn nuôi trong ngành nông nghiệp tăng từ 8,4% năm 2010 lên 10% năm 2015.

Công tác trồng, chăm sóc, quản lý bảo vệ rừng, phòng, chống cháy rừng và xử lý các vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng có nhiều chuyển biến tích cực([v]). Việc giao đất, giao rừng, khoán chăm sóc, quản lý bảo vệ rừng và thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng được chú trọng, góp phần tạo việc làm nâng cao thu nhập của người dân.

Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực, đạt tiến độ đề ra. 100% số xã đã phê duyệt quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết. Ước cuối năm 2015 có 22 xã đạt chuẩn nông thôn mới, bằng 12% tổng số xã; cơ sở hạ tầng ở nông thôn được đầu tư nâng cấp, bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc. Các chính sách, chương trình, dự án đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nông dân lồng ghép với công tác giảm nghèo đạt hiệu quả.

+ Sản xuất công nghiệp – xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá, giá trị sản xuất gấp 2,05 lần so với năm 2010([6]), tăng bình quân 15,8%/năm. Cơ cấu các ngành sản xuất công nghiệp tập trung phát triển theo hướng phát huy lợi thế so sánh của tỉnh. Một số nhà máy mới được đầu tư xây dựng, nâng công suất; một số dự án chế biến sâu đã được triển khai([7]). Khu công nghiệp Trà Đa được đầu tư, mở rộng diện tích([8]).

Thương mại – dịch vụ tăng trưởng nhanh, tăng bình quân 15,5%/năm, vượt chỉ tiêu Đại hội XIV. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ gấp 2,94 lần so với năm 2010([9]), tăng bình quân 24,04%/năm. Xuất khẩu tăng trưởng cao, kim ngạch xuất khẩu gấp 2,11 lần so năm 2010, tăng bình quân 16,15%/năm, vượt chỉ tiêu Đại hội XIV([10]); kim ngạch nhập khẩu tăng bình quân 20%/năm. Thị trường hàng hóa phong phú, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Các mặt hàng chính sách cung ứng kịp thời, đầy đủ. Công tác quản lý thị trường được triển khai tích cực. Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, đưa hàng Việt Nam xuống nông thôn, vùng sâu, vùng xa triển khai hiệu quả, đạt 2 mục tiêu vừa phát triển thương hiệu hàng Việt, vừa phục vụ đời sống và sản xuất của nhân dân vùng nông thôn.

Hoạt động tài chính, ngân hàng đạt được kết quả tích cực. Tổng thu ngân sách trên địa bàn hằng năm đều đạt và vượt dự toán([11]), tăng bình quân 18,84%/năm, tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách bình quân hằng năm đạt 10,3%, vượt chỉ tiêu Đại hội XIV. Công tác quản lý chi, điều hành ngân sách thực hiện đúng chế độ. Các nhiệm vụ chi cho đầu tư phát triển, chi thường xuyên, thực hiện các chính sách an sinh xã hội và quốc phòng, an ninh được đảm bảo. Chương trình hành động về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí triển khai tích cực.

Hệ thống ngân hàng được mở rộng. Nguồn vốn và các dịch vụ ngân hàng đã cơ bản đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh của các tổ chức kinh tế và cá nhân([12]), tổng nguồn vốn huy động tăng bình quân 17,6%/năm([13]); tổng dư nợ tăng bình quân 17,1%/năm([14]).

Tổng mức đầu tư toàn xã hội được tăng lên hằng năm, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội tiếp tục phát triển. Trong 5 năm, tổng vốn đầu tư thực hiện 60.700 tỷ đồng, gấp 1,9 lần so với năm 2010, tăng bình quân 13,8%/năm([15]). Cơ cấu đầu tư chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng vốn đầu tư của cộng đồng doanh nghiệp và dân cư ngày càng tăng. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước được phân bổ tập trung, khắc phục dần tình trạng đầu tư dàn trải và nợ đọng trong xây dựng cơ bản. Giao thông được mở rộng, kết nối, thông suốt, đi lại cơ bản thuận lợi. Các công trình thủy lợi([16]), điện([17]), nước sinh hoạt([18]) được chú trọng đầu tư phù hợp với quy hoạch và nâng cấp ở các khu đô thị, các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng căn cứ cách mạng, góp phần tăng năng lực sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân([19]). Cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng về giáo dục, y tế, văn hóa được quan tâm đầu tư và có bước phát triển, đáp ứng nhu cầu dạy và học([20]), chăm sóc bảo vệ sức khỏe, khám, chữa bệnh([21]) và nhu cầu sinh hoạt của nhân dân([22]).

 – Chính sách phát triển các thành phần kinh tế phát huy hiệu quả

Các chính sách về phát triển các thành phần kinh tế được thực hiện hiệu quả. Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển. Tỉnh đã tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp được tiếp cận với các chính sách tín dụng, tiền tệ để hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp lớn của tỉnh đã cơ cấu lại ngành nghề, mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Kinh tế tập thể tiếp tục được củng cố, nòng cốt là hợp tác xã chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng, vận tải, thương mại, tín dụng góp phần tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho nhân dân.

– Các vùng kinh tế tiếp tục được đầu tư phát triển

+ Các vùng động lực tiếp tục phát triển và đạt tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, đúng hướng. Hạ tầng kinh tế – xã hội được đầu tư xây dựng, chỉnh trang đô thị ngày càng khang trang hơn. Tốc độ phát triển kinh tế – xã hội và quy mô đô thị các vùng động lực được nâng cao([23]).

+ Vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng tiếp tục được quan tâm đầu tư. Tỉnh ủy đã chỉ đạo tập trung triển khai đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp, hình thành các vùng chuyên canh cây nguyên liệu cho các nhà máy chế biến ở các huyện: Kbang, Kông Chro, Ia Pa và Krông Pa… Thực hiện lồng ghép hiệu quả các chương trình quốc gia, các nguồn vốn giảm nghèo nên đã tạo chuyển biến cơ bản về phát triển kinh tế – xã hội ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng; cải thiện đáng kể điều kiện sinh hoạt, từng bước nâng cao mức sống người dân.

2- Văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển, an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo, đời sống của nhân dân được cải thiện

– Sự nghiệp giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển, đạt nhiều kết quả quan trọng; khoa học và công nghệ có chuyển biến về mặt ứng dụng

Quy mô, mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng(24]); việc xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia ở các cấp học đúng tiến độ. Chất lượng giáo dục được nâng lên, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp tăng so với đầu nhiệm kỳ([25]), học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú trúng tuyển đại học ngày càng cao. Công tác phổ cập giáo dục duy trì kết quả đạt được, có 98,2% xã, phường, thị trấn đạt phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, 100% xã, phường, thị trấn đạt phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Đội ngũ nhà giáo đảm bảo đủ về số lượng và chất lượng với 99% giáo viên đạt chuẩn. Công tác khuyến học, khuyến tài, xã hội hóa giáo dục đào tạo và dạy nghề chuyển biến tích cực. Tạo điều kiện cho một số trường đại học([26]) mở phân hiệu đào tạo trình độ đại học, sau đại học tại tỉnh. Chất lượng nguồn nhân lực khu vực hành chính, sự nghiệp được nâng lên, trong đó trình độ đại học trở lên chiếm gần 54%; tỷ lệ lao động qua đào tạo dự ước 40%, đạt chỉ tiêu Đại hội XIV.

 Hoạt động khoa học và công nghệ gắn với nghiên cứu và triển khai có chuyển biến về chất lượng. Nhiều đề tài, dự án([27]) nghiên cứu, ứng dụng trên các lĩnh vực, các mô hình điểm về ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất được nhân rộng, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm([28]). Công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được chú trọng. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng.

– Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân có nhiều tiến bộ

Mạng lưới cơ sở vật chất y tế được đầu tư nâng cao về chất lượng phục vụ tốt hơn yêu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân. Chất lượng dịch vụ y tế, kể cả y học hiện đại và y học cổ truyền được nâng lên. Công tác y tế dự phòng được đẩy mạnh, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế thực hiện có hiệu quả, các bệnh xã hội, dịch bệnh được phát hiện và khống chế kịp thời. Chính sách về bảo hiểm y tế được triển khai tích cực, nhất là đối với người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách, trẻ em dưới 6 tuổi([29]). Đội ngũ cán bộ y tế phát triển cả về số lượng và chất lượng; việc luân phiên đưa bác sĩ về tuyến xã được chú trọng, đến nay 80% trạm y tế xã có bác sỹ; bình quân toàn tỉnh đạt 24,4 giường bệnh/1vạn dân; 100% cơ sở điều trị cơ bản đảm bảo đủ thuốc chủ yếu để điều trị theo quy định; y đức cán bộ y tế đã có chuyển biến tích cực; xã hội hóa về y tế bước đầu đạt kết quả.

– Hoạt động văn hóa – thông tin tập trung hướng về cơ sở

Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được đẩy mạnh([30]). Công tác nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc đạt được một số kết quả tích cực.

              Các hoạt động báo chí, văn học nghệ thuật, phát thanh truyền hình, xuất bản có bước phát triển, chất lượng ngày càng được nâng lên; đội ngũ văn nghệ sĩ, phóng viên báo chí ngày càng tăng về số lượng và chất lượng, góp phần phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.

              Phong trào thể dục thể thao được quan tâm phát triển hơn([31]); trên 55% trường học đảm bảo chương trình giáo dục thể chất. Công tác xã hội hóa hoạt động thể dục thể thao được đẩy mạnh.

– Công tác an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện

Hệ thống an sinh xã hội phát triển đa dạng, ngày càng mở rộng và có hiệu quả. Chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên rõ rệt, GDP bình quân đầu người năm 2015 gấp 2,64 lần so với năm 2010. Các chương trình, chính sách về giảm nghèo bền vững đạt được nhiều kết quả quan trọng, tỷ lệ hộ nghèo bình quân mỗi năm giảm 3,18% (tiêu chí giai đoạn 2011 – 2015), từ 27,56% (năm 2010) giảm xuống còn 11,67% (năm 2015), đạt chỉ tiêu Đại hội XIV. Công tác giải quyết việc làm, hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo và thực hiện các chính sách xã hội, chương trình “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”, “Quỹ học bổng Nay Der” đạt kết quả thiết thực([32]). Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp được triển khai đồng bộ, góp phần đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn.

               Thực hiện chính sách dân tộc đạt được một số kết quả tích cực. Đã huy động nhiều nguồn lực, lồng ghép các chương trình mục tiêu, dự án, ưu tiên đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội([33]). Bộ mặt nông thôn chuyển biến rõ nét. 100% làng đồng bào dân tộc thiểu số được định cư và phần lớn đã có đất sản xuất; đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tại chỗ được quan tâm đào tạo. Văn hóa truyền thống của các dân tộc được gìn giữ và phát huy. Đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố, ngăn chặn có hiệu quả hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc để phá hoại khối đại đoàn kết, làm mất ổn định chính trị – xã hội của các thế lực thù địch.

Công tác tôn giáo được chú trọng. Đã thực hiện đúng đắn các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân được tôn trọng, đa số đồng bào có đạo thực hiện tốt trách nhiệm công dân; tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo được tăng cường.

– Công tác bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được tăng cường

Nhận thức và trách nhiệm về công tác bảo vệ môi trường được nâng lên, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các biện pháp khắc phục, xử lý ô nhiễm môi trường được triển khai tích cực; có 93% chất thải rắn ở đô thị được thu gom (tăng 11% so với năm 2010). Tỷ lệ che phủ của rừng đến năm 2015 đạt 46,1%.

Công tác quy hoạch, quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên đất đai, khoáng sản, tài nguyên nước trong những năm gần đây đã được tăng cường quản lý; công tác giao đất, cho thuê đất, cấp phép khai thác khoáng sản, nguồn nước được chấn chỉnh, kịp thời xử lý nghiêm đối với những trường hợp vi phạm.

3- Về quốc phòng, an ninh, cải cách tư pháp và hoạt động đối ngoại

– Quốc phòng, quân sự địa phương tiếp tục được tăng cường và giữ vững

Đã phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng tiềm lực quốc phòng trong khu vực phòng thủ vững chắc. Hằng năm, tổ chức thành công các cuộc huấn luyện diễn tập khu vực phòng thủ tại các địa phương, tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh đạt kết quả tốt.

Lực lượng vũ trang địa phương thường xuyên được củng cố, kiện toàn, không ngừng nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu; tham gia tích cực, có hiệu quả vào công tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phòng, chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, huấn luyện dân quân tự vệ, quân dự bị động viên được chú trọng. Triển khai thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.

Hoạt động bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia được tăng cường. Việc phân giới, cắm mốc biên giới với Campuchia được chú trọng. Việc quy tập hài cốt liệt sỹ hy sinh qua các thời kỳ chiến tranh trên địa bàn tỉnh và quân tình nguyện Việt Nam hy sinh ở Campuchia được triển khai tích cực([34]).

jQuery(document).ready(function($) { $.post('https://gialaitv.vn/wp-admin/admin-ajax.php', {action: 'wpt_view_count', id: '69506'}); });
Lượt xem: 94

Trả lời